Chất Lượng Mang Tới Thành Công

BỆNH DỊCH TẢ VỊT

Bệnh dịch tả vịt (DVE) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính gây tử vong cao cho vịt, ngan và ngỗng do một virus thuộc nhóm Herpes gây ra. Bệnh có triệu chứng sốt cao, sưng đầu, chảy nước mắt, chân mềm yếu, bại liệt, ỉa phân xanh.

Bệnh dịch tả vịt, vịt chết

Triệu chứng bệnh dịch tả vịt

  • Thời gian ủ bệnh từ 3 - 7 ngày. Sau khi xuất hiện triệu chứng, vịt chết sau 1-5 ngày. Triệu chứng biểu hiện khác nhau tùy theo độc lực của virus; tuổi, tính biêt, giống và sức đề kháng của cơ thể vịt.
  • Ở những đàn vịt bị bệnh lúc đầu xuất hiện những con lờ đờ, không thích vận động, không muốn xuống nước.
  • Trên đàn vịt lớn, khi chăn thả có một số con rớt lại sau đàn do chân bị liệt; vịt có hiện tượng chết đột ngột.
  • Vịt đẻ khi bị bệnh, sản lượng trứng giảm xuống, thậm chí ngừng đẻ. Vịt đực bị bệnh có hiện tượng sa dịch hoàn.
  • Vịt bệnh sốt cao 43 - 44oC, vịt ủ rũ, bỏ ăn, đứng một chân, đầu rúc vào cánh.
  • Trong đàn có nhiều con có tiếng kêu khản đặc.
  • Vịt sưng mí mặt, niêm mạc mắt đỏ, lúc đầu chảy nước mắt trong, loãng làm ướt cả vùng lông dưới mí mắt, nước mắt đặc lại có màu vàng như mủ đóng đầy khóe mắt và có khi làm 2 mú mắt dịnh lại với nhau. Vịt khó thở, thở khò khè.
  • Từ mũi chảy ra chất niêm dịch lúc đầu trong sau đặc lại, khô quánh bám quanh khóe mũi.
  • Vịt bị sưng đầu, có con lông đầu dựng lên như mào, khi sờ nắn có cảm giác đầu mềm như “chuối chín”.
  • Hầu, cổ sưng to do tổ chức liên kết dưới da bị phù thũng.
  • Vịt khi vận động có hiện tượng run đầu, cổ hoặc toàn thân.
  • Vịt mới bị bệnh khát nước, sau vài ngày thấy tiếu chảy, phân loãng, màu trắng xanh, thối khắm, hậu môn bẩn, lông xung quanh dích bết phân.
  • Vịt con 2 - 7 tuần tuổi có hiện tượng có hiện tượng mất lưỡng, khối lượng cơ thể giảm, mỏ có màu xanh, viêm kết mạc mắt; chảy nước mắt, nước mũi và có lẫn các vệt máu tươi. Đến ngày thứ 6 - 7, vịt gầy rạc, liệt, nằm một chỗ, thân nhiệt giảm dần, con vật kiệt sức mà chết.
  • Tỷ lệ ốm, tỷ lệ chết: dao động từ 5 - 100%. Vịt trưởng thành có tỷ lệ chết cao hơn vịt con.

Bệnh tích bệnh dịch tả vịt

  • Bệnh tích biểu hiện khác nhau tùy thuộc theo độc lực của virus, giống và sức đề kháng của cơ thể vịt.
  • Xác chết gầy, đầu, cổ sưng, tụ máu tính bầm, tổ chức dưới da thấm nước keo nhầy, trong màu hồng nhạt.
  • Da vùng đầu, cổ, ngực, bụng, đùi xuất huyết lấm tấm giống muỗi đốt.
  • Niêm mạc hầu, họng, thực quản viêm, xuất huyết, đôi chỗ có vết loét phủ màng giả màu vàng xám do thượng bì bong tróc ra.
  • Dạ dày tuyến phủ nhiều dịch nhớt giống như mủ, gạt lớp niêm dịch thấy niêm mạc xuất huyết.
  • Dạ dày cơ xuất huyết nặng.
  • Niêm mạc ruột viêm cata, tụ máu và xuất huyết, có những vết loét, nhất là tá tràng và trực tràng.
  • Gan màu nâu nhạt, có những chấm hoại tử to bằng đầu đinh ghim, sưng tụ máu, xuất huyết. Túi mật sưng, lách bình thường hoặc teo nhỏ, sẫm màu, có những chấm hoại tử.
  • Tuyến ức có nhiều điểm xuất huyết và hoại tử màu vàng.
  • Túi Fabricius lúc đầu có màu đỏ, về sau được bao bọc bởi lớp dịch màu vàng. Khi bổ đôi túi Fabricius thấy bên trong có nhiều dịch thủy thũng, niêm mạc túi bị mỏng và có nhiều điểm xuất huyết.
  • Thận và tuyến tụy ít bị ảnh hưởng, xoang bụng có dịch thẩm xuất màu vàng.
  • Ở những con vịt đẻ, mạch máu buồng trứng căng phồng, có trường hợp xuất huyết. Trứng non méo mó, noãn hoàng vỡ chứa đầy trong xoang bụng.

Chẩn đoán

Chẩn đoán lâm sàng

  • Chẩn đoán bệnh dịch tả vịt dựa vào các triệu chứng lâm sàng và mổ khám bệnh tích. Tuy nhiên, vẫn cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh như. Viêm gan do virus của vịt, bệnh Dịch tả ngỗng, Tụ huyết trùng gia cầm và bệnh Cúm gia cầm thể độc lực cao.

Chẩn đoán phi lâm sàng

  • Sử dụng các phản ứng huyết thanh học để chẩn đoán bệnh như phản ứng mễn dịch huỳnh quang, phản ứng ELISA, phản ứng ngưng kết hồng cầu gián tiếp.
  • Sử dụng phương pháp PCR để chẩn đoán bệnh dịch tả vịt với kỹ thuật iiPCR thực địa giúp chẩn đoán nhanh từ 1 - 2 giờ mà kết quả vẫn chính xác như các kỹ thuật PCR phòng thí nghiệm khác.

Phòng bệnh

  • Ở những nơi chưa có dịch xảy ra, tốt nhất nên tự sản xuất con giống. Tránh để thức ăn, chuồng nuôi, nguồn thức ăn, bãi chăn ô nhiễm căn bệnh. Không nên chăn thả vịt ở những nơi đang có dịch
  • Những trại vịt có số lượng lớn cần tăng cường vệ sinh chuồng trại, thực hiện nghiêm túc nội quy phòng bệnh.
  • Hiện nay sử dụng 2 chủng virus nhược độc để chế vaccine.
  • Ở những nơi ít bị dịch, vịt nuôi thịt tiêm 1 lần ngày khi vịt nở.
  • Với vịt đẻ và vịt giống cần tiêm nhắc lại sau 45 ngày và sau mỗi 6 tháng tái chủng một lần trước khi vịt vào vụ đẻ.
  • Tiêm phòng vaccine rất quan trọng, vaccine rất an toàn.
  • Khi dịch xảy ra tiêm thẳng vacxin dịch tả vịt vào ổ dịch sẽ cứu sống vịt nhưng hiện nay đã có kháng thể dịch tả vịt thương mại nên phương pháp này ít được sử dụng.

Cách điều trị bệnh dịch tả vịt

Hiện nay đã có kháng thể dịch tả vịt thương mại nên việc điều trị bệnh dịch tả vịt đơn giản, giảm thiệt hại hơn trước rất nhiều.

Khi vịt mắc bệnh:

  • Đối với vịt dưới 2 tuần tuổi tiêm 1ml/con nhắc lại sau 3 ngày.
  • Đối với vịt trên 2 tuần tuổi tiêm 1.5 - 2ml/con nhắc lại sau 3 ngày.
  • Trường hợp số lượng đàn quá lớn không thể tiêm, dùng kháng thể dịch tả vịt hòa nước cho vịt uống với liều gấp đôi liều tiêm.

Bổ sung đường gluco, chất điện giải, vitamin nâng cao sức đề kháng cho vịt.

Phân rác phải ủ nóng, chuồng trại phải tẩy uế, sát trùng bằng các dung dịch formol 3% - 5%, NaOH 2% hoặc nước vôi đặc. Để trống chuồng 1 tháng mới nhập vịt.

Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )

098 777 3645