Chất Lượng Mang Tới Thành Công

Phương pháp phát hiện bệnh ở tôm nuôi

Nếu phát hiện thấy tôm nuôi trong ao bị nhiễm bệnh thì đã quá trễ không thể áp dụng một biện pháp chữa trị nào được nữa. Điều cần thiết là quản lý tốt ao nuôi sao cho dịch bệnh không có cơ hội bùng nổ lây lan.

Việc phát hiện ra bệnh rất khó khăn, trừ khi có hiện tượng tôm chết hàng loạt. Dấu hiệu bệnh thường xuất hiện ở một số ít cá thể trong ao nuôi do vậy người nuôi cần phải quan sát tôm nuôi thường xuyên nhằm xác định được bệnh ở giai đoạn sớm nhất để có biện pháp kịp thời trước khi sản xuất bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tôm thích lên mặt ao hay ven bờ vì nước ở đó có hàm lượng oxy cao. Trong nhiều trường hợp cũng có thể là để tránh hàm lượng chất độc cao ở đáy ao. Khi tôm bị bệnh hoặc bị những tác động xấu từ môi trường, chúng thường nổi lên mặt nước hoặc tập trung ven bờ và đó là dấu hiệu nghiêm trọng. Vì thế cần phát hiện sớm những dấu hiệu khác thường qua sàng ăn hoặc chài. Kiểm tra các ao nuôi vào ban đêm và lúc sáng sớm là rất quan trọng vì tôm bệnh sẽ nổi lên mặt nước hoặc ven bờ rất nhiều vào những lúc này. Khi thấy tôm tập trung ven bờ thì nên kiểm tra đáy ao để biết số tôm chết, nhất là ở khu vực đặt máy sục khí, ở giữa ao nơi tích cặn bã và quanh cống thoát.
1. Phải theo dõi các thông tin về môi trường và quản lý ao nuôi bao gồm:
- Chất lượng nước đặt biệt là hàm lượng oxy hòa tan, pH và nhiệt độ

- Những biến động về thời tiết như mưa lớn
- Tình trạng đáy ao
- Sự phát triển của tảo
- Quản lý nước
- Xử lý nước
- Sục khí
2. Quan sát dấu hiệu bệnh bên ngoài cơ thể tôm
Những dấu hiệu bệnh lý bên ngoài cơ thể tôm nuôi thường không cung cấp 
những thông tin nhất định nào về tác nhân gây bệnh. Phức tạp hơn là dấu hiệu bệnh lý do nhiều tác nhân cùng gây ra cộng với những biến đổi bất lợi về các yếu tố môi trường. Việc chẩn đoán bệnh nếu chỉ đơn thuần dựa vào dấu hiệu bên ngoài sẽ không chính xác mà cần phải được thực hiện cùng với những kết quả chẩn đoán khác. Các bước quan sát dấu hiệu bệnh được tiến hành như sau:
Quan sát trong bể
Chọn những cá thể có dấu hiệu bệnh rõ ràng hay những cá thể sắp chết vào bể 
nước sạch có sục khí và có cùng độ mặn như ở ao nuôi. Trong trường hợp tôm bị ảnh hưởng do môi trường xấu sẽ bình phục sau khoảng hai giờ đồng hồ và các dấu hiệu như mang có màu đen hay xám sẽ biến mất.
Màu sắc cơ thể:
Hiện tượng đỏ thân hay đỏ phụ bộ ở tôm nuôi có thể do nhiều tác nhân gây bệnh khác nhau gây nên. Cũng có trường hợp nhiều tác nhân gây bệnh cùng kết hợp gây nên tình trạng trên. Mặc dù vậy, dấu hiệu đỏ thân hay đỏ phụ bộ cũng giúp cho người chẩn đoán đề xuất những khả năng có thể xác định được tác nhân gây bệnh nhanh và chính xác nhất.
Thí dụ: tôm đang ở giai đoạn ấu trùng thì tác nhân gây bệnh đỏ thân có thể là vi khuẩn, còn ở hậu ấu trùng và tôm lớn thì nguyên nhân bao gồm cả vi khuẩn (chủ yếu là nhóm Vibrio), virus đặc biệt là virus gây bệnh đốm trắng và các nhân tố gây sốc.
Sự xuất hiện những đốm trắng trên vỏ
thường là do tôm bị nhiễm virus đốm 
trắng. Tuy nhiên, những đốm trắng trên vỏ tôm cũng có thể do những nguyên nhân có liên quan đến pH hay ảnh hưởng của hàm lượng canxi trong nước. Muốn xác định một cách chính xác nguyên nhân gây ra hiện tượng đốm trắng trên vỏ tôm, thì cần phải tiến hành các bước kiểm tra chẩn đóan trong phòng thí nghiệm (PCR, mô bệnh học...).
Hiện tượng vỏ tôm có màu xanh có thể là hậu quả của những biến động xấu của môi trường nuôi hoặc do thành phần sắc tố có trong thức ăn của tôm nuôi. Mặt khác, có trường hợp hiện tượng vỏ tôm có màu xanh là do tôm bị nhiễm virus gây bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô, xuất huyết ruột hay thiếu astaxanthin
Hiện tượng đầu vàng thường do tôm bị bệnh ở gan tụy hay bị nhiễm virus gây bệnh đầu vàng. Tuy nhiên có khi tôm bị nhiễm virus lại không có dấu hiệu đầu vàng. Cho nên ngoài việc quan sát dấu hiệu bệnh, việc xác định tác nhân gây bệnh là rất quan trọng.
Thịt tôm có màu trắng đục khác với bình thường là trắng trong hay trắng mờ có liên quan đến xuất huyết ruột, teo cơ hoặc bị nhiễm vi bào tử trùng.
Màu sắc mang
Hiện tượng mang tôm có màu hơi nâu hay đen
có thể do nhiều nguyên nhân gây 
nên, vì vậy nếu chỉ quan sát dấu hiệu bên ngoài thì không thể kết luận được điều gì. Lập tiêu bản tươi và quan sát dưới kính hiển vi là việc ít nhất phải làm để có thể xác định một trong các nguyên nhân gây ra hiện tượng này. Nguyên nhân thông thường là do hàm lượng oxy hoà tan trong nước thấp hoặc tôm bị bẩn do nước có nhiều chất vẫn hữu cơ, thức ăn thừa hay do tảo. Nếu là một trong những nguyên nhân trên thì sau khi thả tôm vào bể nước sạch trong vòng 2 giờ tôm sẽ hoạt động bình thường trở lại và màu nâu hay đen trên mang tôm sẽ biến mất.
Hiện tượng mang tôm có màu nâu thỉnh thoảng xuất hiện ở những ao có hiện tượng phát quang mạnh vào ban đêm. Màu sắc mang tôm trong trường hợp này rất giống với trường hợp tôm bị ảnh hưởng do hàm lượng oxy hoà tan thấp. Nếu như hàm lượng oxy hoà tan trong nước vẫn nằm trong giới hạn cho phép và tôm chết nhanh với tỉ lệ cao thì nguyên nhân gây nên hiện tượng mang tôm có màu nâu là do gan tụy bị nhiễm độc tố sinh ra bởi vi khuẩn Vibrio harveyi. Trong trường hợp gan tụy bị nhiễm khuẩn ở mức độ ít hay vừa mang sẽ có màu nâu nhưng không dễ tìm thấy các tế bào vi khuẩn trong máu, mô hay mang như trong trường hợp tôm nhiễm khuẩn nặng. Hàm lượng oxy hòa tan trong nước thấp sẽ làm cho mang tôm có màu nâu nhạt hoặc nâu hơi đỏ và hiện tượng này sẽ biến mất nhanh chóng khi cho tôm vào bể nước sạch. Nhưng nếu hàm lượng oxy hòa tan trong nước thấp kéo dài nhất là ao có nhiều chất vẩn hữu cơ, thức ăn thừa, bùn và tảo thì tôm sẽ càng ngày càng yếu và mất đi khả năng tự làm sạch mang. Điều này sẽ làm cho mang tôm ngày càng bẩn có màu nâu sẫm.
Sự tiết hắc tố (melanin) là do hoạt động của men phenol oxidase (PO) lên các hợp chất hữu cơ thơm như amino acid tyrosine tạo ra sắc tố màu nâu đen. Khi hiện diện ở mức độ thấp chúng có màu nâu nhưng khi ở mức độ cao chúng có màu đen. Hắc tố có thể được tiết ra do sự tác động của vi sinh vật (vi khuẩn hay nấm), các
nhân tố gây sốc của môi trường (hàm lượng oxy hòa tan thấp) và chế độ dinh dưỡng (thiếu Vitamin C). Trong trường hợp hàm lượng oxy hòa tan thấp thì có thể quan sát sự tiết hắc tố bằng cách lập tiêu bản tươi mẫu mang và quan sát thấy mang có màu nâu đỏ. Sự thay đổi màu sắc này không xuất hiện ở vỏ nhưng ở máu và ở dịch mô. Khác với các hiện tượng mang có màu nâu do sinh vật bám hay do chất vẩn trong nước thường thấy ở vỏ. Trong trường hợp tôm bị nhiễm khuẩn mãn tính, bị thương hay bị sốc kéo dài hắc tố sẽ tích tụ ngày càng nhiều và gây nên những vết thương có màu nâu nhạt, nâu thẫm hay đen trên mô cơ. Vi khuẩn gây bẩn ở tôm thường là vi khuẩn dạng sợi, sự hiện diện của nhóm vi khuẩn dạng sợi với số lượng lớn là dấu hiệu của sự lột xác kéo dài của tôm hay chất lượng môi trường xấu. Các vi khuẩn gây bẩn này thường biến mất khi tôm lột xác.
Nhiễm khuẩn mãn tính do vi khuẩn Vibrio hay các loài vi khuẩn phân hủy kitin khác đều có khả năng gây nên sự tiết hắc tố ở mang tôm do sự tích tụ máu ở vị trí bị nhiễm khuẩn. Những chổ bị nhiễm khuẩn thường có màu đen trên vỏ hay dưới vỏ.
Hiện tượng mang tôm có màu xanh thường do tảo lục và tảo lam gây nên. Trong trường hợp này sau khi thả tôm vào bể nước sạch trong vòng 2 giờ tôm sẽ hoạt động bình thường trở lại và màu xanh trên mang tôm sẽ biến mất.
• Phụ bộ
Phụ bộ tôm rất dễ bị tổn thương nhất là khi nuôi ở mật độ cao do tôm thường hay tấn công lẫn nhau. Những chổ bị tổn thương ở phụ bộ là con đường xâm nhập của vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng vào cơ thể tôm. Sự có mặt của các sinh vật này sẽ gây ra hiện tượng xuất huyết kèm theo sự tiết hắc tố. Nếu loại bỏ được những nguyên nhân gây tổn thương và quản lý tốt môi trường nuôi với chế độ dinh dưỡng hợp lý tôm sẽ phục hồi nguyên vẹn phụ bộ trong lần lột xác tiếp theo.
Lớp biểu bì
Sự thay đổi màu sắc cũng thấy ở lớp biểu bì dưới da và ở cơ. Hắc tố tiết ra ở lớp 
biểu bì thường biến mất khi tôm lột xác và được thay bằng lớp biểu bì mới nếu như các tác nhân gây nhiễm được loại bỏ. Sự tiết hắc tố thường có liên quan đến bệnh nấm fusarium, bệnh mycobacterium, nhiễm Taura syndrome virus và do thiếu Vitamin C.

Mô cơ của tôm có khi có màu nâu hay đen rất rõ (bệnh Vibrio-mảng đen, nấm 
mycosis, vi khuẩn mycobacterium). Biểu hiện này có thể có hay không có liên quan đến lớp biểu bì phía trên và trong nhiều trường hợp chỉ nhìn thấy rõ khi loại bỏ lớp biểu bì. Rõ ràng không phải lúc nào tôm cũng tiết hắc tố như là phản ứng tự vệ để chống lại sự xâm nhập của vi sinh vật. Nhiễm vi bào tử trùng làm cho cơ đuôi của tôm có màu trắng đục. Trong bất cứ trường hợp nào cũng đòi hỏi phải
phân tích mô bệnh học để việc xác định nguyên nhân. Có khi người ta thấy thịt tôm sú nuôi trong ao có những vệt đen nhưng chúng không biểu hiện rõ cho đến khi lột vỏ chế biến mới phát hiện được. Màu đen hiện lên rõ nhất là sau khi tôm được nấu chín và vì thế thường làm cho tôm mất đi giá trị thương phẩm. Nguyên nhân của hiện tượng này vẫn chưa được xác định
Túi tinh
Ở tôm bị bệnh đen túi tinh, túi tinh sẽ có màu nâu hay đen. Bệnh này ít khi gây 
chết tôm nhưng thường sinh ra tinh trùng không bình thường.
• Tăng trưởng chậm hay tôm bị còi Khi thấy tôm có dấu hiệu tăng trưởng chậm hay bị còi thì phài xét đến tác động của những tác nhân gây bệnh truyền nhiễm trong ao nuôi. Những tác nhân này không gây bùng nổ bệnh nhưng làm cho tôm chậm lớn. Tăng trưởng chậm có khi xuất hiện cùng với hiện tượng chủy bị cong. Ở tôm sú sự tăng trưởng chậm bất thường có nhiều khả năng có liên quan đến việc tôm bị nhiễm virus Parvo gây bệnh ở gan tụy.
Dị dạng
Những dấu hiệu bất thường về hình dạng cơ thể hay phụ bộ tôm có thể do những 
tác nhân gây bệnh truyền nhiễm, điều kiện môi trường bất lợi hay do chế độ dinh dưỡng không hợp lý. Có khi những yếu tố này tác động đến tôm trong quá trình lột xác và để lại hậu quả sau khi tôm đã lột xác. Trong nhiều trường hợp, ấu trùng, hậu ấu trùng hay tôm trưởng thành không thể lột bỏ hết lớp vỏ cũ và kết quả có khi làm cho tôm chết.
Trong điều kiện hàm lượng oxy hòa tan thấp và tôm bị sốc mạnh, cơ bụng bị teo 
lại. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ làm trắng cơ và tôm sẽ chết. Những trở ngại trong quá trình lột xác ở ấu trùng và hậu ấu trùng thường gây nên tình trạng tôm bị dị dạng rất dễ quan sát bằng mắt thường. Quan sát tôm dưới kính hiển vi là bước đầu tiên để xác định nguyên nhân. Trong nhiều trường hợp nguyên nhân có thể là do tôm thiếu lecithin nên lột xác không thành công và chết.
Mềm vỏ
Vỏ tôm cứng được là nhờ có calcium carbonate (CaCO3). Sau khi lột, vỏ mới rất 
mềm và phải mất vài giờ mới cứng hoàn toàn. Trong thời gian này tôm rất dễ bị tổn thương và nhất là bị tôm khác ăn thịt. Ngoài tự nhiên, chúng tìm cách tự bảo vệ mình trong quá trình lột xác bằng cách vùi mình dưới đáy hay trốn trong các hốc đá. Tuy nhiên chúng không thể làm được điều này trong điều kiện ao nuôi. Quá trình làm cứng vỏ thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thủy hoá, dinh dưỡng hay các mầm bệnh. Hiện tượng mềm vỏ ở tôm thường có liên quan đến virus gây hội chứng Taura và hiện tượng hoại tử gan tụy.


Màu sắc và độ đầy của ruột
Ruột đầy và màu sắc của ruột thường được quan sát nhằm đánh giá tình trạng sức 
khoẻ của tôm nuôi. Bình thường cơ bụng của tôm có màu trắng trong và có thể quan sát dễ dàng ruột đầy hay rỗng để biết tôm ăn nhiều, ít hay không ăn. Trong trường hợp tôm không ăn cần phải xác định nguyên nhân. Ruột tôm có màu trắng thường có liên quan đến sự nhiễm virus Baculor gây hoại tử ruột giữa.
Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )

098 777 3645