Chất Lượng Mang Tới Thành Công

Bệnh phân trắng lợn con

Bệnh phân trắng lợn con xảy ra do rất nhiều nguyên nhân, cho nên người ta còn gọi là “Hội chứng tiêu chảy phân trắng lợn con”. Bệnh xảy ra quanh năm, những nhiều nhất vào vụ đông xuân khi tròi lạnh, mưa phùn, độ ẩm cao và vào vụ đẻ,
mật độ nuôi dày.

Tác nhân gây bệnh chính là vi khuẩn E. Coli
(Escherichia Coli), là một nhóm trực khuẩn đường ruột luôn có mặt trong đường tiêu hoá gia súc và ở môi trường tự nhiên. Khi có điều kiện bất lợi cho lợn con, chúng se tăng sinh và gây bệnh cấp tính. Tuy tỷ lệ chết không cao, song nếu không điều trị hợp lý những con sống sót sẽ còi cọc và ữở thành vật mang mầm bệnh nguy hiểm.

Tại cơ sở chăn nuôi cho lợn đẻ đồng loạt, bệnh phân trắng thường xảy ra vào vụ đẻ nhiều. Nếu cho lợn đẻ quanh năm, bệnh thường xảy ra khi:
- Vi phạm quy trình vệ sinh đỡ đẻ.
- Thức ăn cho nái chửa kỳ n và nái nuôi con không đảm bảo chất lượng (thức ăn mốc, thối, thiếu chất,...).
- Hàm lượng chất miễn dịch Globulin trong máu lợn con thấp. Những cá thể này có thể do bú sữa đầu chậm quá một giờ sau khi đẻ hoặc hàm lượng Globulin trong sữa lợn nái thấp, hoặc số con được ghép đàn muộn (3 ngay sau khi đẻ) nên những cá thể mới không được bú sữa đầu có chất miễn dịch.
Ngoài ra, những nguyên nhân khác làm cho lợn con bị bệnh là:
- Chuồng bẩn dẫn đến lợn con luôn phải bú lợn nái có bầu vú bị nhiễm khuẩn, trong đó có E. Coli.
- Sữa lợn nái ít nên lợn con đói phải gậm mút lung tung như nước, rơm, chất thải bị nhiễm mầm bệnh.

- Lợn mẹ bị viêm vú do E. Coli. Trong trường hợp này lợn con bị tiêu chảy ngay sau khi bú sữa.
- Chuồng lạnh trong khi độ ẩm cao, gió lùa làm cho nhu động ruột của lợn con thay đổi đột ngột nên chúng dễ nhiễm bệnh.
Lợn con nhiễm bệnh qua đường ăn uống, niêm mạc mắt và có thể qua bào thai. Chính vì vậy, việc chọn đàn nái có sức khoẻ tốt, chăm sóc nuôi dưỡng đúng kỹ thuật, thức ăn đảm bảo, giữ ấm về mùa đông, thoáng về mùa hè, chuồng thật khô có vai trò quyết định trong việc phòng bệnh phân trắng lợn con.
Triệu chứng
Bệnh phân trắng lợn con xảy ra ở lợn sơ sinh đến 21 ngày tuổi, đặc biệt sau 15 ngày tuổi. Phụ thuộc vào số lượng và độc tố cua tác nhân gây bệnh, điều kiện ngoại cảnh, sức đề kháng của lợn bệnh có thể xảy ra ở các dạng nhiễm trùng huyết Coli, nhiễm độc tố côli đường ruột hoặc viêm ruột do Coli.

Dạng nhiễm trùng huyết Coli thường xảy ra quá cấp.

Lợn bệnh sốt cao nên sờ tay vào 2 tai, thân lợn cảm thấy nóng ran, gương mũi khô và tỷ lệ chết cao. Lợn bệnh bo bú, ủ rũ, đi loạng choạng, mạch đập và nhịp thở tăng. Tiêu chảy không phải là triệu chứng thường xuyên.
Trong dạng nhiễm độc tố Coli đường ruột lợn bệnh tiêuchảy, yếu, nôn, co giật hoặc liệt tứ chi, truy tim mạch.
Trong trường hợp này sờ tay vào lợn bệnh cảm thấy lạnh.
Trong dạng viêm ruột do Coli phần lổn các trường hợp lợn bệnh tiêu chảy, giảm bú, yếu, tỷ lệ chết không ăn
Triệu chứng lâm sàng chung khi lợn con bị bệnh Phân trắng là: lợn bệnh sốt ở nhiều mức độ khác nhau, giảm hoặc bỏ bú, hay nằm, lưòi vận động, tiêu chảy phân loãng lẫn bọt khí có màu trắng xám (màu phân cò), thối, đôi lúc lẫn máu
nên phân có màu nâu. Sau khi có triệu chứng tiêu chảy thân nhiệt 'lợn bệnh giảm xuống, có khi dưới mức bình thường. Đôi khi có con nôn ra sữa chưa tiêu hoá có mùi chua. Đến giai đoạn nẫy lợn bệnh nằm một chỗ, mắt nhắm, lông khô, phân dính vào mông, khoeo, lợn rặn rất nhiều khi ỉa. Mạch yếu, niêm mạc hậu môn đỏ. Cả đàn bị hoặc có con bị, có con không, điều trị khỏi có thể tái nhiễm.
Bệnh tích
Ruột non viêm tiết dịch xuất huyết, mạch máu màng treo ruột chứa đầy máu. Hạch màng treo ruột sưng, mềm, xuất huyết hình đinh ghim. Niêm mạc ruột non và ruột già sưng, phủ lóp nhầy, xuất huyết hình đinh ghim, từng đám hoặc lan toả. Niêm mạc hậu môn đỏ. Gan tăng sinh, sưng, màu đất sét. Túi mật căng to do chứa nhiều dịch mật. Lách không sưng, mềm, bóc lớp vỏ thường thấy xuất huyết. Tim sưng to, cơ tim nhão, đôi khi xuất huyết. Một số trường hợp dạ dày rỗng, ruột non căng, nhìn từ bên ngoài thấy màu hơi hồng, chứa đầy hơi. Xác chết gầy hóp bụng, da khô, lông xù.

Lợn chết qua đêm da phần sát nền có màu thâm đen, còn gọi là vết hoen xác chết. Đây là hiện tượng sau chết tim lợn ngừng đập, máu ở thể lỏng dồn về phần thấp của cơ thể, làm giãn các mạch máu, đặc biệt các mạch máu ở sát bề mặt da (những phần xác chết bị tì đè ở dưới không xuất hiện vết hoen). Mo ra có mùi thối.
Chẩn đoán
Dựa trên kết quả nghiên cứu lâm sàng, bệnh tích mổ khám, dịch tễ học và xét nghiệm vi trùng. Lợn con theo mẹ có thể bị tiêu chảy do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong từng trường hợp có phác đồ điều trị thích hợp. Chỉ có lợn con bị E.Coli gây tiêu chảy, còn lợn trưởng thành không bị bệnh này, do đó cần phân biệt bệnh phân trắng lợn con với một số bệnh dưới đây:

Bệnh Viêm ruột hoại tử do Clostridium perỷringens type B và C:
- Bệnh thường xảy ra lợn con dưới 10 ngày tuổi và cả đàn cùng mắc bệnh.

- Lợn bệnh tiêu chảy phân lẫn máu (phân màu nâu) kèm hoại tử hông tràng, hồi tràng và kết tràng.
- Chết đột ngột và tỷ lệ chết khá cao.
- Trường hợp quá cấp điều trị không hiệu quả. Trong các trường hợp còn lại tiêm bắp một trong các loại kháng sinh sau: Combi-pharm (lml/7,5kgP, 1 lần/ngày), phối hợp tiêm bắp lml Enroseptyl-L.A với lml Pharseptyl-L.A cho lOkgP, 1
lần/ngày hoặc Phar-D.O.C (lml/8kgP/lần, 2 lần/ngày), kết hợp tiêm vitamin K, thuốc trợ lực (Phar-complex C).
Bệnh Tiêu chảy do cầu trùng:
- Lợn thường nhiễm bệnh vào giai đoạn 1 -3 tuần tuổi.
- Lợn bệnh tiêu chảy lúc đầu phân màu trắng, sau vài ngày chuyển qua màu vàng, tiến triển lỏng như nước đến sền sệt giống pho mát, ít khi thấy có máu. Bên cạnh phân loãng còn thấy một số viên tròn như phân thỏ (cục phân to gần bằng hạt ngô, màu nâu). Mùi phân rất tanh. Lợn bệnh không sốt và ít bị nôn. Nếu ghép các bệnh khác thì triệu chứng phức tạp hơn nhiều. Lợn lớn hơn có thể mang mầm bệnh nhưng không bị bệnh, nguy hiểm là chúng thải mầm bệnh gây bệnh cho đàn lợn con. Lợn con cùng lúc có thể nhiễm cả bệnh Phân trắng lợn con lẫn bệnh Cầu trùng.
- Hông tràng và hồi tràng bị viêm hoại tử, niêm mạc ruột sung huyết, có nhiều màng giả màu vàng ngà. Bệnh này điều trị cho hiệu quả cao bằng cách cho uống Pharm-cox, 0,4 ml/kgP, một lần duy nhất. Có thể kết hợp cho uống kèm kháng sinh Pharmequũrvà tiêm vitamin K cho .kết quả tốt.
Bệnh Viêm dạ dày ruột truyền nhiễm (TGE);
- Bệnh do Coronavirus gây ra. Bệnh có tính lây lan cao ở lợn thuộc mọi lứa tuổi, nặng nhất ở lợn con dưới 10 ngày tuổi, gây chết gần như 100%. Lợn con sơ sinh dưới 18 giờ tuổi ít nhiễm bệnh. Lợn trên 3 tuần tuổi bị nhẹ nhất và ít chết nhất. Bệnh này không có thuốc đặc trị.
- Tiêu chảy phân vàng có thể lẫn thức ăn không tiêu và nôn ở lợn thuộc mọi lứa tuổi. Bệnh thuyên giảm nếu lượng kháng thể trong cơ thể lợn bệnh tăng.
- Lợn nái ốm khỏi bệnh thường mất sữa.
- Nhung mao. hông tràng và hồi tràng bị phá huỷ làm cho thành ruột mỏng nên khi mổ khám có thể nhìn thấy thức ăn chứa bên trong. Xác chết gầy, mất nước. Dạ dày căng phồng, chứa sữa đông đặc không tiêu. Ruột non căng phồng, chứa dịch màu vàng

Chứng khó tiêu:
- Chi xảy ra ờ lợn con dưới 10 ngày tuổi và thường ờ đàn con cùa nái đò lứa một, lứa hai, nái non hoặc nái già.

- Trong vòng 1 - 2 ngày cả đàn sẽ bị bệnh.
- Thân nhiệt lợn bệnh không tăng, có khi dưới mức bình thường.
- Điều trị đúng hướng sẽ cho kết quả tốt.
Bệnh viêm dạ dày ruột do vi rút đường ruột:
- Lợn mọi lứa tuổi đều bị bệnh, trừ lợn con theo mẹ dưới 3 tuần tuổi.
- Bệnh không có thể quá cấp tính, tỷ lệ chết khoảng 10%.
Điều trị
Lợn bệnh chết do mẩy nguyên nhân sau\

- Loạn khuẩn đường ruột.
- Nhiễm nội ngoại độc tố của vi khuẩn.
- Mất nước và điện giải.
Để điều trị có hiệu quả cần khắc phục 3 nguyên nhân này. Phân trắng lợn con là bệnh điều trị được, song phải can thiệp kịp thời và đồng bộ lợn mói khỏi bệnh nhanh và không bị còi sau khi khỏi bệnh. Điều trị 3 ngày theo một
trong các cách sau:
Cách 1
- Tiêm bắp 1 ml kháng sinh Enroseptyl-LA với lm l kháng khuẩn Pharseptyl-L.Ả cho lml/lOkgP, 1 lần/ngày.
- Tiêm bắp Calci-Mg-B6, 5 ml/con, 1 lần/ngày.
- Cho uống Dizavit-plus, lg/lOkgP/lần, 2 lần/ngày.
Cách 2:
- Tỉêm bắp kháng sinh Lincoseptin, lml/5kgP, 1 lần/ngày.
- Cho uống men Pharbiozym, lg/5kgP, 1 lần/ngày.
Cách3:
- Cho uống kháng sinh Phardiazol (phân trắng lợn con, lg/6 - 8kg p/lần) hoặc Kanamulin (Phân vàng lợn con, 0,5ml/5kgP/lần), 2 lần/ngày.
- Cho uống men Pharselenzym, lg/5kgP, 1 lần/ngày.
Chú ý:
- Các loại thuốc khác có thể dùng cho kết quả cao: cho uống Pharcolivet, Pharmequin hoặc Pharmpicin; tiêm bắp Norflo-T.S.S, Coli-flox, Coìi-flox pharm, Phar-D .o.c
- Để điều trị bệnh Phân trắng lợn con đạt hiệu quả cao cần lưu ý những điểm sau:
+ Khi đàn lợn con bị tiêu chảy nhiều cần giảm thức ăn của lợn mẹ để giảm tiết sữa, như vậy vừa phòng viêm vú cho lợn mẹ vì lợn con ốm giảm bú, lượng sữa thừa gây viêm vú và giảm tiêu chảy ở đàn con do chất lượng sữa.
+ Đối với các trường hợp nặng nên tách lợn mẹ khỏi lợn con 6 - 8 giờ mỗi ngay để hạn chế lợn con bú, nhưng phải cho uống nước đầy đủ (liệu pháp đói).
+ Đối với đàn con đã ăn được nhưng khi bị tiêu chảy dùng thuốc thì bệnh dừng, khi dừng thuốc bệnh lại xảy ra cần cai sữa ngay bệnh sẽ hết.
+ Nếu lợn tiêu chảy nhiều cần tiếp dung dịch điện giải Pharcalci-F hoặc glucoza 20% qua phuc mạc, mỗi lần 30 - 50 ml/con. Trước khi tiêm đun cách thuỷ dung dịch lên 37°c, cứ một lít dịch tiêm pha vào một triệu UI Penicillin hoặc lOml kanamycin-10 hoặc lOml Lincòcin-10 và 10ml caiein. Kháng sinh chỉ pha ngay trước khi tiêm, thuốc đã pha không để qua đêm. Tốt nhất tiếp nước vào cuối buổi chiều để ban ngày lợn bệnh đói tự bú và tự uống.
+ Tăng cường cho lợn con vận động.
+ Không nên tiêm chế phẩm chứa sắt (Dextran Fe) khi lợn con bị bệnh Phân trắng và không được tiêm cùng lúc với thuốc chứa õxytetracyclin, vì Dextran và Oxytetracyclin tưong kỵ với nhau.
+ Chuồng phải khô, ấm, tránh gió lùa. Không tắm cho đàn con theo mẹ, hạn chế rữa chuồng tối đa, kể cả mùa hè, dọn phân sạch sẽ.
+ Thức ăn cho nái nuôi con không được chua, không có nấm mốc, độc tố, đặc biệt lượng đạm không được quá cao.
+ Trong trường hợp cả đàn bị phân trắng cần điều trị thêm nái nuôi con bằng cách tiêm 3 ngày một trong các loại kháng sinh sau: Bocinvet-L.A, Bocin-pharm, Prenacinn , Doxyvet-L.A, Doxytyl-F, Pharsulin, Enroseptyl-L.A
hoặc Supermotic.
- Theo phương pháp dân gian có thể cho lợn bệnh uống nước sắc lá phèn đen, quả hồng xiêm non, nước chè đặc hoặc cho uống lẫn với kháng sinh cũng cho kết quả tốt.
Phòng bệnh
Đây là bệnh hoàn toàn phòng được bằng cách chăm sóc nuôi dưỡng đúng kỹ thuật. Có 3 mục tiêu cơ bản để phòng bệnh do E.coli - là một trong những nguyên nhân chính gây bệnh phân trắng lợn con.
Hướng thứ nhất là tiêu độc, vệ sinh tốt để giảm lượng E.coli gây bệnh.
Hướng thứ hai là tiến hành chăm sóc tốt để duy trì sức đề kháng “tự nhiên” của lợn sơ sinh tới mức cao nhất.
Hướng thứ ba là tăng sức đề kháng cho đàn con bằng cách cho bú sữa đầu sớm hoặc tiêm vacxin phòng bệnh (cho lợn con và lợn mẹ).
Để đạt được những mục tiêu này thực hiện không những đối vói đàn con mà còn đối với cả nái nuôi con như sau:
Đối với lợn nái:
- Đảm bảo cho nái chửa và nuôi con ăn cám đầy đủ chất dinh dưỡng, cân đối về năng lượng, vitamin, các dưỡng chất cần thiết và ổn định trong suốt quá trình nuôi.
- Vào ngày chửa 84 và 100 tiêm cho nái chửa 5 ml vitamin ADE-Bcomplex để tăng sức đề kháng cũng như tạo điều kiện cho bào thai phát triển tốt.
- 5 ngày trước khi đẻ giảm dần lượng thức ăn để 1 ngày trước đẻ lợn nái chỉ được ăn nửa non khẩu phần hàng ngày nhưng nước uống phải đầy đủ. Trong vòng 4 ngày sau đẻ cho lợn nái án từ ít đến nhiều. Tránh thức ăn cao đạm. Vì một trong những nguyên nhân đàn lợn sơ sinh tiêu chảy là do cho lợn nái mói đẻ ăn nhiều cũng như thức giàu đạm quá.
- Chuồng đẻ phải vệ sinh sạch sẽ, dùng thuốc sát trùng xong mới đưa lợn nái chờ đẻ vào (xử lý muộn nhất 7 ngày trước dự kiến đẻ).
- Khi có biểu hiện trở dạ đẻ (lợn ăn ít hoặc bỏ ăn, bồn chồn, cắn phá chuồng, chảy dịch màu hồng ở âm môn), cần vệ sinh bầu vú, cơ quan sinh sản ngoài của lợn nái bằng nước ấm, sạch.
- Trước khi đẻ 8 giờ (hoặc sau khi đẻ) tiêm cho lợn nái một mũi Oxyvet-L.A với liều lml/lOkgP để phòng Hội chứng MMA ở lợn nái và tiêu chảy ở đàn con.
Đối với đàn con:
- Sau khi đẻ ra dùng vải mềm lau sạch dịch, nhớt bẩn ờ mũi, miệng lợn con và phải cho lợn con bú sữa đầu ngay, vì trong sữa dẫu có nhiều kháng thể giúp lợn con chống chọi với các yếu tố bất lợi xung quanh ty Sữa đầu chỉ có giá trị cao nhất trong vòng 4 giờ sau khi đẻ. Ngoài ra, việc lợn con bú còn kích thích lợn mẹ đẻ nhanh hơn.
- Trong vòng 3 ngày đầu sau đẻ tiêm bắp cho mỗi lợn con một liều 0,5 ml ADE-Bcomplex và lm l Phar-F.B 1080 hoặc 2ml Fertran-B12, tiêm nhắc lại lần 2 sau 10 -15 ngày.
- Chỉ nên chuyển đi ghép đàn khác sau khi lợn con đã được bú sữa đầu và chỉ nên chuyển trong vòng 24 giờ. Đối với việc ghép sang mẹ nuôi là nái đẻ sau (ghép lùi), chậm nhất không quá 36 giờ trước khi vú thừa của mẹ nuôi hết sữa đầu.
- Vào thòi kỳ giá lạnh hoặc đàn con yếu cần lùi ngày cai sữa đàn con mói ít bị bệnh đường tiêu hoá và đường hô hấp.
- Để chuồng nuôi thoáng về mùa hè một số cơ sở lắp quạt công nghiệp ngay dưới nền chuồng thổi thẳng vào đàn lợn sơ sinh, hậu quả tuy mát nhưng đàn lợn theo mẹ bị bệnh Phân trắng. Nguyên nhân do tốc độ gió cao làm lợn con bị lạnh dẫn đến rối loạn nhu động ruột gây tiêu chảy.
Do đó luồng gió nhân tạo thổi vừa phải hoặc cao hơn mặt sàn nuôi lợn con trên 1,5 - 2 m mới đạt yêu cầu. Trong chuồng kín dùng quạt hút ra là hiệu quả nhất.
- Nếu có điều kiện nuôi lợn trong chuồng khép kín, cho ăn cám công nghiệp, giữ chuồng khô, ấm, sạch, nước uống đầy đủ bệnh hầu như không xảy ra. Cần nhớ rằng, dọn vệ sinh thường xuyên tốt hơn phun sát trùng liên tục và chuồng bẩn nhưng khô, tốt hơn sạch mà ướt.
Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )

098 777 3645