Trong tự nhiên cơ thể sinh vật yêu cầu các điều kiên ngoại cảnh có khác nhau do có nhiều chủng loại có phương thức sinh sống riêng, có sự khác biêt ở mỗi giai đoạn phát triển. Có một số sinh vật sống tự do, có một số sống cộng sinh, trái lại có sinh vật trong từng giai đoạn hay cả quá trình sống nhất thiết phải sống ở bên trong hay bên ngoài cơ thể một sinh vật khác để lấy chất dinh dưỡng mà sống hoặc lấy dịch thể hoặc tế bào tổ chức của sinh vật đó làm thức ăn duy trì sự sống của nó và phát sinh tác hại cho sinh vật kia gọi là phương thức sống ký sinh hay còn gọi là sự ký sinh.
Sinh vật sống ký sinh gọi là sinh vật ký sinh. Động vật sống ký sinh gọi là ký sinh trùng. Sinh vật bị sinh vật khác ký sinh gây tác hại gọi là vật chủ. Vật chủ không những là nguồn cung cấp thức ăn cho ký sinh trùng mà còn là nơi cư trú tạm thời hay vĩnh cửu của nó. Các loại biểu hiên sự hoạt động của ký sinh trùng và mối quan hê qua lại giữa ký sinh trùng với vật chủ gọi là hiên tượng ký sinh. Khoa học nghiên cứu có hê thống các hiên tượng ký sinh gọi là ký sinh trùng học.
Nguồn gốc của sinh vật sống ký sinh:
Thường nguồn gốc của sinh vật sinh sống ký sinh chia làm 2 giai đoạn:
Sinh vật từ phương thức sinh sống cộng sinh đến ký sinh:
Cộng sinh là 2 sinh vật tạm thời hay lâu dài sống chung với nhau, cả 2 đều có lợi hay 1 sinh vật có lợi (cộng sinh phiến lợi) nhưng không ảnh hưởng đến sinh vật kia, 2 sinh vật sinh sống cộng sinh trong quá trình tiến hoá 1 bên phát sinh ra tác hại bên kia, lúc này từ cộng sinh chuyển qua ký sinh, ví dụ như amíp: Endamoeba histokytica Schaudinn sống trong ruột người dưới dạng thể dinh dưỡng nhỏ lấy các chất cặn bã để tồn tại không gây tác hại cho con người lúc này nó là cộng sinh phiến lợi, nhưng lúc cơ thể vật chủ do bị bênh tế bào tổ chức thành ruột bị tổn thương, sức đề kháng yếu, amíp thể dinh dưỡng nhỏ tiết ra men phá hoại tế bào tổ chức ruột chui vào tầng niêm mạc ruột chuyển thành amíp thể dinh dưỡng lớn có thể gây bênh cho người. Như vậy từ cộng sinh amíp đã chuyển qua ký sinh.
Sinh vật từ phương thức sinh sống tự do chuyển qua ký sinh giả đến ký sinh thật.
Tổ tiên của ký sinh trùng có thể sinh sống tự do, trong quá trình sống do 1 cơ hội ngẫu nhiên, nó có thể sống trên bề mặt hay bên trong cơ thể sinh vật khác, dần dần nó thích ứng với môi trường sống mới, ở đây có thể thoả mãn được các điều kiên sống, nó bắt đầu tác hại đến sinh vật kia trở thành sinh sống ký sinh. Phương thức sinh sống ký sinh này được hình thành thường do ngẫu nhiên lặp đi lặp lại nhiều lần thông qua ký sinh giả rồi đến ký sinh thật.
Tổ tiên của sinh vật ký sinh trải qua một quá trình lâu dài để thích nghi với hoàn cảnh môi trường mới, về hình thái cấu tạo và đặc tính sinh lý, sinh hoá của cơ thể có sự biến đổi lớn, 1 số cơ quan trong quá trình sinh sống ký sinh không cần thiết thì thoái hoá hoặc tiêu giảm như cơ quan cảm giác, cơ quan vận động...Những cơ quan để đảm bảo sự tồn tại của nòi giống và đời sống ký sinh thì phát triển mạnh như cơ quan bám, cơ quan sinh dục. Một số đặc tính sinh học mới được hình thành và dần dần ổn định và di truyền cho đời sau, qua nhiều thế hê cấu tạo cơ thể càng thích ghi với đời sống ký sinh.
Phương thức và chủng loại ký sinh:
Phương thức ký sinh:
Dựa theo tính chất ký sinh của ký sinh trùng để chia:
Ký sinh giả: Ký sinh trùng ký sinh giả thông thường trong điều kiên bình thường sống tự do chỉ đặc biêt mới sống ký sinh ví dụ như: Haemopis sp sống tự do khi tiếp xúc với động vật lớn chuyển qua sống ký sinh.
Ký sinh thật: Ký sinh trùng trong từng giai đoạn hay toàn bộ quá trình sông của nó đều lấy dinh dưỡng của vật chủ, cơ thể vật chủ là môi trường sông của nó. Dựa vào thời gian ký sinh có thể chia ra làm 2 loại:
Ký sinh có tính chất tạm thời: Ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể vật chủ thời gian rất ngắn, chỉ lúc nào lấy thức ăn mới ký sinh như Đỉa cá Piscicola sp hút máu cá .
Ký sinh mang tính chất thường xuyên: Một giai đoạn, nhiều giai đoạn hay cả quá trình sông ký sinh trùng nhất thiết phải ký sinh trên vật chủ.Ký sinh thường xuyên lại chia ra ký sinh giai đoạn và ký sinh suốt đời.
+ Ký sinh giai đoạn: Chỉ một giai đoạn nhất định trong quá trình phát triển ký sinh trùng sông ký sinh. Trong toàn bộ quá trình sông của ký sinh trùng có giai đoạn sông tự do, có giai đoạn sông ký sinh như: Giông giáp xác chân đôt Sinergasilus giai đoạn ấu trùng sông tự do, giai đoạn trưởng thành ký sinh trên mang của nhiều loài cá.
+ Ký sinh suốt đời: Suết cả quá trình sông ký sinh trùng đều sông ký sinh, nó có thể ký sinh trên một vật chủ hoặc nhiều vật chủ, không có giai đoạn sông tự do nên tách khỏi vật chủ là nó bị chết ví dụ ký sinh trùng Trypanosoma ký sinh trong ruột đỉa cá, đỉa hút máu cá chuyển qua sông trong máu cá.
Dựa vào vị trí ký sinh để chia:
Ngoại ký sinh: Ký sinh trùng ký sinh trên bề mặt cơ thể trong từng giai đoạn hay suổt đời đều gọi là ngoại ký sinh. Ở cá ký sinh trùng ký sinh trên da, trên vây, trên mang, hôc mũi, xoang miệng, ở tôm ký sinh trên vỏ, phần phụ, mang đều là ngoại ký sinh ví dụ như Trichodina, Ichthyophthirius, Zoothamnium, Epistylis, Acineta, Argulus, Lernaea....
Nôi ký sinh: Là chỉ ký sinh trùng ký sinh trong các cơ quan nội tạng, trong tổ chức trong xoang của vật chủ như: vi bào tử (microspore) ký sinh trong cơ của tôm, sán lá Sanguinicola sp ký sinh trong máu cá; sán dây Caryophyllaeus sp, giun đầu gai Acanthocephala ký sinh trong ruột cá.
Ngoài 2 loại ký sinh trên còn có hiện tượng ký sinh cấp hai (siêu ký sinh), bản thân ký sinh trùng có thể làm vật chủ của ký sinh trùng khác ví dụ: sán lá đơn chủ Gyrodactylus sp ký sinh trên cá nhưng nguyên sinh động vật Trichodina sp lại ký sinh trên sán lá đơn chủ Gyrodactylus sp. Như vậy sán lá đơn chủ Gyrodactylus là vật chủ của Trichodina nhưng lại ký sinh trùng của cá. Tương tự như trùng mỏ neo Lernaea ký sinh trên cá, nguyên sinh động vật Zoothamnium sp ký sinh trên trùng mỏ neo Lernaea. Âu trùng giai đoạn thứ ba của giun tròn Spironoura babei Ha Ky, ký sinh trong ruột tịt của sán lá Amurotrema dombrowskajae Achmerov, giun tròn và sán lá đều ký sinh trong ruột của cá bỗng (Spinibarbichthys denticulatus).
Các loại vật chủ:
Có rất nhiều loại ký sinh trùng trong quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm hình thái cấu tạo và yêu cầu điều kiện môi trường sông khác nhau nên có sự chuyển đổi vật chủ. Thường chia ra làm các loại vật chủ theo hình thức ký sinh của ký sinh trùng.
Vật chủ cuối cùng: Ký sinh trùng ở giai đoạn trưởng thành hay giai đoạn sinh sản hữu tính ký sinh lên vật chủ thì gọi là vật chủ cuoi cùng.
Vật chủ trung gian: Ký sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng hay giai đoạn sinh sản vô tính ký sinh lên vật chủ gọi là vật chủ trung gian. Giai đoạn ấu trùng và giai đoạn sinh sản vô tính nếu ký sinh qua 2 vật chủ trung gian thì vật chủ đầu tiên là vật chủ trung gian thứ nhất còn vật chủ tiếp là vật chủ trung gian thứ 2.
Phương thức nhiễm của ký sinh trùng.
Ký sinh trùng nhiễm chủ yếu bằng 2 con đường.
Nhiễm qua miệng:
Nhiễm qua da:
Mối quan hê giữa ký sinh trùng, vật chủ và điều kiên môi trường.
Tác động của ký sinh trùng đối với vật chủ:
Ký sinh trùng khi ký sinh lên vật chủ gây hậu quả tác hại ở mức độ tuy có khác nhau nhưng nhìn chung làm cho cơ thể vật chủ sinh trưởng chậm, phát dục không tốt, sức đề kháng giảm có thể bị chết. Có thể tóm tắt ảnh hưởng của ký sinh trùng đối với vật chủ như sau:
Tác động kích thích cơ học và gây tổn thương tế bào tổ chức: Đây là loại tác dụng thông thường nhất của ký sinh trùng đối với vật chủ như ban đêm giun kim bò ra quanh hậu môn làm cho người có giun kim ký sinh ngứa ngáy khó chịu. Rận cá Argulus dùng cơ quan miệng và gai ở bụng cào lên da cá kích thích làm cho cá khó chịu bơi lội loạn xạ hoặc nhảy lên mặt nước.
Ký sinh trùng gây tổn thương các tổ chức cơ quan vật chủ hiên tượng này rất phổ biến nhưng mức độ có khác nhau nếu gây tổn thương nghiêm trọng có thể làm cho tính hoàn chỉnh của các cơ quan bị phá hoại, các tế bào bong ra gây thành sẹo, tổ chức bị tụ máu và tiết ra nhiều niêm dịch ví dụ như: sán lá đơn chủ giáp xác ký sinh trên da và mang cá phá hoại tổ chức da và mang.
Tác động đè nén và làm tắc: Có một số ký sinh trùng ký sinh ở các cơ quan bên trong làm cho một số tổ chức tế bào bị teo nhỏ lại hoặc bị tê liêt rồi chết, loại tác dụng này thường thấy ở tổ chức gan, thận, tuyến sinh dục như Sán dây Ligula sp, ký sinh trong xoang họ cá Chép làm cho tuyến sinh dục của cá chỉ phát triển đến giai đoạn II. Một số ký sinh trùng ký sinh có thể chèn ép một số cơ quan quan trọng như tim, não...dẫn đến làm cho vật chủ chết nhanh chóng. Ký sinh trùng ký sinh số lượng lớn trong ruột có thể làm tắc ruột của cá như Acanthocephala sp, Bothriocephalus sp. Có một số ký sinh số lượng ít nhưng nó có thể kích thích dây thần kinh dẫn đến co giật cũng gây nên tắc nghẽn ruột, tắc động tĩnh mạch.
Tác động lấy chất dinh dưỡng của vật chủ: Tất cả ký sinh trùng thời kỳ ký sinh đều cần chất dinh dưỡng từ vật chủ, vì vậy nên nhiều hay ít vật chủ đều bị mất chất dinh dưỡng gây tổn hại cho cơ thể. Tuy nhiên, với số lượng ký sinh ít hậu quả không thấy rõ chỉ khi nào ký sinh trùng ký sinh với số lượng nhiều mới biểu hiên rõ rêt. Qua nghiên cứu ở họ cá Tầm Acipenseridae, sán lá đơn chủ Nitzschia sturionis ký sinh, mỗi ngày 1 con sán lá đơn chủ hút 0,5 ml máu, lúc cảm nhiễm nghiêm trọng có thể đếm được 300-400 con sán lá như vậy con cá trong 24 giờ mất đi khoảng 150-200 ml máu làm cho cá gầy đi mau chóng. Ký sinh trùng Lernaea ký sinh trên cá mè, cá trắm số lượng nhiều do hút máu mà cá rất gầy thường thấy đầu rất to, bụng và đuôi thót lại nếu không xử lý để lâu cá sẽ chết. Tác động gây độc với vật chủ: Ký sinh trùng trong quá trình ký sinh tiến hành trao đổi chất, bài tiết chất cặn bã lên cơ thể vật chủ đồng thời ký sinh trùng tiết ra chất độc gây độc cho vật chủ. Qua kết quả nghiên cứu ký sinh trùng cá nhiều tài liêu cho biết rận cá Argulus miệng có tuyến tế bào có khả năng tiết ra dịch phá hoại tổ chức da và mang cá, ký sinh trùng Sinergasilus ký sinh trên mang nhiều loại cá nước ngọt nó tiết ra chất làm tan rã tổ chức mang, ký sinh trùng Cryptobia branchialis ký sinh trên mang cá cũng tiết ra độc tố phá hoại tổ chức mang. Đỉa cá hút máu cá tiết ra men chống đông máu, ký sinh trùng Trypanosoma sp có men làm vỡ tế bào hồng cầu. Làm môi giới gây bệnh: Những sinh vật ký sinh hút máu thường làm môi giới cho một số ký sinh trùng khác xâm nhập vào cơ thể vật chủ ví dụ: Đỉa cá hút máu cá thường mang một số ký sinh trùng lây cho số cá khoẻ mạnh.
Tác dụng của vật chủ đối với ký sinh trùng:
Vấn đề tác dụng của vật chủ đối với ký sinh trùng rất phức tạp, đối với động vật thuỷ sản nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều nên sự ảnh hưởng thật cụ thể khó có thể kết luận chính xác. Nhìn chung tác dụng của vật chủ đối với ký sinh trùng biểu hiên ở các mặt dưới đây:
Phản ứng của tế bào tổ chức vật chủ: Ký sinh trùng xâm nhập vào cơ thể vật chủ gây kích thích làm cho tế bào tổ chức có phản ứng. Biểu hiên ở nơi ký sinh trùng đi vào tổ chức mô hình thành bào nang hoặc tổ chức xung quanh vị trí ký sinh có hiên tượng tế bào tăng sinh, viêm loét để hạn chế sinh trưởng và phát triển của ký sinh trùng, mặt khác làm cho cơ quan bám của ký sinh trùng kém vững chắc để hạn chế tác hại của ký sinh trùng, có lúc có thể tiêu diêt ký sinh trùng vi dụ: ký sinh trùng quả dưa Ichthyophthirius khi ký sinh trên da cá, da của vật chủ nhận kích thích, tế bào thượng bì tăng sinh bao vây ký sinh trùng thành các bọc trắng lấm tấm nên còn gọi là bênh “bạch điểm”. Sán lá ký sinh trên da cá và cơ là Posthodiplostonrum cuticola hình thành bào nang, vách có tế bào sắc tố đen bao vây nên da cá có các hạt lấm tấm đen.
Phản ứng của dịch thể: Vật chủ nhận kích thích khi có ký sinh trùng xâm nhập vào sản sinh ra phản ứng dịch thể. Phản ứng dịch thể có nhiều dạng như: phát viêm, thẩm thấu dịch để pha loãng các chất độc, vừa tăng khả năng thực bào làm sạch các dị vật và tế bào chết của bênh. Nhưng phản ứng dịch thể chủ yếu là sản sinh ra kháng thể, hình thành phản ứng miễn dịch. Phản ứng miễn dịch của cơ thể vật chủ trước đây người ta cho rằng chỉ có ở các bênh do vi sinh vật gây ra nhưng qua kết quả nghiên cứu gần đây ký sinh trùng thuộc các ngành: Nguyên sinh động vật, giun sán, giáp xác ký sinh...cơ thể vật chủ cũng có khả năng sản sinh ra miễn dịch chẳng qua khả năng miễn dịch yếu hơn.
Tuổi của vật chủ ảnh hưởng đến ký sinh trùng: Thường vật chủ trong quá trình phát triển thì cơ thể tăng trưởng, ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể vật chủ cũng có sự thay đổi cho thích hợp.
Đối với ký sinh trùng chu kỳ phát triển có vật chủ trung gian thường xẩy ra 2 hướng:
Một số giống loài ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể vật chủ có cường độ và tỷ lê nhiễm giảm đi theo sự tăng lên của tuổi vật chủ ví dụ sán dây Bothriocephalus gowkongensis ký sinh trong ruột cá trắm cỏ thường cá dưới 1 tuổi có tỷ lê và cường độ nhiễm cao, do cá trắm cỏ giai đoạn cá hương ăn thức ăn chủ yếu là sinh vật phù du trong đó có Cyclops là vật chủ trung gian của sán dây trên, cá trắm cỏ trên 1 tuổi tỷ lê nhiễm thấp do ăn cỏ.
Một số ký sinh trùng ký sinh có cường độ và tỷ lê tăng lên theo tuổi của vật chủ do lượng thức ăn tăng làm trong thức ăn vật chủ trung gian cũng tăng theo, thời gian càng dài khả năng tích tụ và cơ hội nhiễm bênh càng nhiều vì vậy cá lớn thường có cường độ và tỷ lê nhiễm ký sinh trùng càng cao.
Ký sinh trùng là ngoại ký sinh thường tỷ lê và cường độ nhiễm phụ thuộc vào diên tích tiếp xúc, cơ thể vật chủ càng lớn ký sinh trùng ký sinh càng nhiều hoặc thời gian sống của vật chủ càng lâu thì ký sinh trùng ký sinh càng nhiều.
Do cấu tạo cơ thể, môi trường sống của cá con và cá lớn khác nhau dẫn đến có sự sai khác giữa tỷ lê và cường độ nhiễm của ký sinh trùng.
Một số ký sinh trùng phát triển không qua vật chủ trung gian ít có liên quan đến tuổi của vật chủ như: Chilodonella spp, Trichodina spp ký sinh trên cá ở các giai đoạn. Tuy nhiên ở giai đoạn cá bột, cá hương, cá giống nuôi mật độ dày, cơ thể còn non nên thường có cường độ và tỷ lê nhiễm cao và gây thiệt, hại lớn cho sản xuất.
Tính ăn của vật chủ ảnh hưởng đến ký sinh trùng: Trừ số ký sinh trùng là ngoại ký sinh và ký sinh trùng chui trực tiếp qua da vào ký sinh bên trong cơ thể vật chủ ra còn lại ký sinh trùng là nội ký sinh chịu tác động rất lớn đến chuỗi thức ăn của cá. Do tính ăn không giống nhau mà chia các loài cá làm 2 nhóm: cá hiền và cá dữ.
Cá hiền ăn mùn bã hữu cơ, thực vật thuỷ sinh, động vật nhỏ nên hay cảm nhiễm ký sinh trùng có chu ký phát triển trực tiếp hay giun sán có chu ký phát triển qua 1 vật chủ trung gian là động vật phù du ví dụ: cá hiền hay nhiễm ký sinh trùng là bào tử sợi Cnidosporidia, cá trắm cỏ thường nhiễm ký sinh trùng Balantidium.
Ngược lại cá dữ ăn các động vật thuỷ sinh lớn và ăn cá, thường bị nhiễm các giống loài ký sinh trùng có chu kỳ phát triển phức tạp, giai đoạn ấu trùng của ký sinh trùng ký sinh ở các vật chủ là vật mồi của cá dữ như cá nheo, cá thiểu hay cảm nhiễm sán lá song chủ Isoparorchis sp cá trê, cá vược...thường cảm nhiễm sán lá song chủ Dollfustrema sp.
Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )