Cá bị nấm thủy mi trên mang cá
Tác nhân gây bệnh.
- Gây bênh là các loài thuộc các giông: Leptolegnia, Saprolegnia và Achlya; Họ Saprolegniaceae; Bộ Saprolegniales.
- Các hai giống nấm đều có sợi phân nhánh. Sợi nấm cấu tạo đa bào, nhưng giữa các tế bào không có vách ngăn nên sợi nấm giông như một tế bào khổng lổ. Đường kính của sợi nấm 6-14 ụ,m, kích thước bào tử đựng 3-4 x 8-11 ụ,m.
- Sợi nấm chia làm hai phần: Phần gôc bám vào tổ chức có thể của vật chủ, phần ngọn tự do ngoài môi trường nước. Nấm có khả năng sinh sản bằng nhiều hình thức khác nhau: Sinh sản dinh dưỡng bào tử, sinh sản vô tính bằng túi bào tử kín, sinh sản hữu tính bằng tiếp hợp. Bào tử nấm có tiên mao, có thể vận động trong nước nên khả năng lây lan bênh rất cao.
Dấu hiệu bênh lý
- Khi ĐVTS bị bênh trên da xuất hiên những vùng trắng xám, có các sợi nấm nhỏ mềm. Sau vài ngày sợi nấm phát triển, đan chéo thành từng búi trắng như bông, có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Trứng cá bị bênh có màu trắng đục, xung quanh có nhiều sợi nấm phát triển. Bênh xuất hiên nhiều ở các ao nuớc tù đọng, có nhiều mùn bã hữu cơ, nuôi mật độ dày. ĐVTS bị đánh bắt vận chuyển xây xát. Vết thương ngoài da do ký sinh trùng và vi khuẩn gây ra.
Phân bố và lan truyền bệnh.
- Các loài cá nước ngọt, baba, ếch,... đều nhiễm bênh nấm. Chúng gây tác hại lớn cho nghề nuôi trổng thuỷ sản nước ngọt tự sản xuất giống cho đến giai đoạn nuôi thịt.
- Mùa phát bênh thường vào mùa mát mẻ, mùa xuân, mùa thu và đặc biệt là mùa đông ở miền Bắc. Miền Nam vào mùa mưa. Nhiêt độ nước từ 18-250C nấm phát triển mạnh nhất.
Chẩn đoán bệnh.
- Có thể bằng mắt thường nhìn thấy các sợi nấm hoặc soi dưới kính hiển vi. Nuôi cấy phân lập các loài nấm bằng môi trường Sabourand Agar, Potato dextrose Agar có kháng sinh.
Phòng bệnh: Áp dụng các biên pháp phòng bênh tổng hợp. Trong sinh sản nhân tạo các loài cá có trứng dính chép, trê,.... cần phải khử trùng các gía thể trứng bám vào bể ấp. Nguồn nước ương ấp lọc sạch. Các trứng ương ấp tỷ lê thụ tinh cao, hạn chế lượng trứng ung trong bể. Có thể ấp trứng trong nước có nồng độ thuốc 0,1-0,2 ppm TCCA. Trong các mùa xuất hiên bênh định kỳ 1-2 lần/tháng phun thuốc TCCA nồng độ 0,3-0,5 ppm đối với cá, nồng độ 0,5-0,8 ppm đối với ếch, baba. Hatai và Willoughby, 1988 cho rằng vi khuẩn Pseudomonas flurescens có khả năng ức chế nấm Saprolegnia parasitica bằng kháng sinh từ vi khuẩn.
Trị bệnh:Tắm cho ĐVTS bằng BROPOL nồng độ 200-300 ppm thời gian 30-60 phút hoặc phun xuống ao, bể nuôi 2 lần/ tuần thuốc Formalin nồng độ 10-20 ppm.
- Dùng BROPOL tắm cho cá 30ppm (30mg/l) thời gian 15 phút. Dùng 50ppm BROPOL để xử lý trứng cá trong thời gian 30 phút.
Sản phẩm BROPOL trị bệnh nấm hiệu quả trên động vật thủy sản
Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )