Chất Lượng Mang Tới Thành Công

Liều lượng dùng thuốc thế nào trong nuôi trồng thủy sản

Liều lượng thuốc nhiều hay ít đều có ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc. Dùng liều quá ít không phát sinh tác dụng; dùng liều lượng thuốc nhỏ nhất phát sinh được tác dụng thì gọi là liều lượng thuốc thấp nhất có hiệu nghiệm

  • Liều lượng thuốc nhiều hay ít đều có ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc. Dùng liều quá ít không phát sinh tác dụng; dùng liều lượng thuốc nhỏ nhất phát sinh được tác dụng thì gọi là liều lượng thuốc thấp nhất có hiệu nghiệm. Liều lượng thuốc lớn nhất mà cơ thể sinh vật chịu đựng được không có biểu hiện ngộ độc là liều lượng thuốc chịu đựng cao nhất, là liều lượng cực đại. Nếu vượt quá ngưỡng này động vật thuỷ sản (ĐVTS)) sẽ bị ngộ độc. Liều lượng dẫn đến động vật thuỷ sản ngộ độc gọi là lượng ngộ độc, vượt hơn động vật thuỷ sản sẽ chết gọi là liều lượng tử vong.
  • Thuốc dùng để trị các bệnh bên ngoài của động vật thuỷ sản thường dựa vào thể tích nước để tính liều lượng thuốc. Đối với các bệnh bên trong cơ thể thì căn cứ vào trọng lượng cơ thể để tính lượng thuốc. Thường người ta chọn ở giữa hai mức: liều thuốc nhỏ nhất có hiệu nghiệm và liều cao nhất có thể chịu đựng được, trong phạm vi này sẽ an toàn với động vật thuỷ sản.Thuốc tốt thường có phạm vi an toàn lớn.
  • Muốn chọn liều lượng nào để chữa bệnh cho động vật thuỷ sản có hiệu quả cao và an toàn với động vật thuỷ sản cần phải nắm vững tình trạng cơ thể, giai đoạn phát triển và đặc điểm  sinh vật học của giông loài động vật thuỷ sản cần trị bênh cũng như điều kiên môi trường động vật thuỷ sản sông mới có quyết định chính xác. Có lúc trong phạm vi an toàn thuôc vẫn có thể gây ngộ độc đôi với động vật thuỷ sản.

Quá trình thuốc ở trong cơ thể:

  • Thuôc sau khi vào cơ thể phát sinh ra các loại tác dụng nhưng đồng thời cơ thể cũng làm cho thuôc có những biến đổi. Quá trình thuôc ở trong cơ thể qua sự biến đổi tương đôi phức tạp như sau:

Thuốc được hấp thụ:

  • Tôc độ hấp thu thuôc của cơ thể là nhân tô quyết định sự hiêu nghiêm của thuôc nhanh hay chậm. Tôc dộ hấp thu của thuôc phụ thuộc vào các yếu tô:
  • Phương pháp dùng thuôc ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ của thuôc. Nếu dùng thuôc để tiêm tác dụng nhanh, hiêu quả trị liêu cao hơn uông. Cùng một phương pháp dùng thuôc nếu diên tích hấp thu càng lớn thì khả năng hấp thụ nhanh, hiêu nghiêm của thuôc sẽ nhanh hơn.
  •  Tính chất lý hoá của thuôc : thuôc dịch thể dễ hấp thu hơn thuôc tinh thể nhưng tinh thể lại hấp thu nhanh hơn chất keo.
  • Điều kiên môi trường: Điều kiên môi trường như độ muôi, độ pH, nồng độ thuôc đều ảnh hưởng đến khả năng hấp thu thuôc của cơ thể. Ngoài ra bản thân cơ thể có các yếu tô bên trong cũng ảnh hưởng đến hấp thu của thuôc như lúc đói, ruột rỗng hấp thu thuôc dễ hơn lúc no ruột có nhiều thức ăn hay chất cặn bã, hê thông tuần hoàn khoẻ mạnh hấp thu thuôc tôt hơn.

Phân bố của thuốc trong cơ thể:

  • Thuôc sau khi hấp thu vào trong máu một thời gian ngắn, sau đó qua vách mạch máu nhỏ đến các tổ chức. Thuôc phân bô trong các tổ chức không đều là do sự kết hợp của các chất trong tế bào tổ chức của các cơ quan có sự khác nhau ví dụ như các loại Sulphamid thường tập trung ở thận.

Sự biến đổi của thuốc trong cơ thể:

  • Thuôc sau khi vào cơ thể phát sinh các biến đổi hoá học làm thay đổi tác dụng dược lý, trong đó có rất ít sau biến đổi khả năng hoạt động của thuôc mạnh lên nhưng tuyêt đại đa sô sau biến đổi hoá học hiêu nghiêm và độc lực của thuôc giảm thậm chí hoàn toàn mất tác dụng. Quá trình biến đổi của thuôc trong cơ thể gọi là tác dụng giải độc. Trong gan có hê thông men rất phong phú tham gia xúc tác quá trình biến đổi hoá học của thuôc nên tác dụng giải độc thực hiên chủ yếu ở gan. Vì vậy nếu gan bị bênh cơ năng hoạt động yếu cơ thể dễ bị ngộ độc thuôc.

Bài tiết của thuốc trong cơ thể:

  • Tác dụng của thuôc mạnh hay yếu, thời gian dài hay ngắn quyết định ở liều lượng và tôc độ thuôc hấp thu vào cơ thể sinh vật đồng thời còn quyết định bởi tôc độ bài tiết của thuôc trong cơ thể. Thuôc vào cơ thể sau khi phân giải một sô dự trữ lại còn một sô bị bài tiết thải ra ngoài. Thuôc vừa hấp thu vào cơ thể mà bài tiết ngay là không tất vì chưa kịp phát huy tác dụng. ở cá cơ quan bài tiết chủ yếu là thận, đến ruột và mang. Nếu thận, ruột, mang cá bị tổn thương hay bị bênh thì phải thận trọng lúc sử dụng thuôc lúc phòng trị bênh cá bởi lúc này cá rất dễ bị ngộ độc.

Tích trữ của thuốc trong cơ thể sinh vật

  • Cùng một loại thuôc nhưng dùng nhiều lần lặp đi lặp lại do khả năng giải độc hoặc khả năng bài tiết của cơ thể bị trở ngại thuôc tích trữ trong cơ thể quá nhiều mà phát sinh ra 
  • trúng độc thì gọi là ngộ độc do tích thuốc, Thuốc tồn đọng lại trong cơ thể gọi là sự tích trữ của thuốc.
  • Chức năng hoạt động giải độc và bài tiết thuốc của cơ thể vẫn bình thường nhưng do cung cấp thuốc nhiều lần cơ thể chưa kịp phân giải và bài tiết nên cũng có thể làm cho thuốc tích trữ. Vì vậy nên thường phải khống chế sao cho lượng thuốc vào không lớn hơn lượng thuốc bài tiết ra khỏi cơ thể. Trong thực tế người ta dùng một lượng thuốc tương đối lớn hơn để có tác dụng sau đócho bổ sung theo định kỳ số lượng thuốc ít hơn cốt để duy trì một nồng độ nhất định trong cơ thể có khả năng tiêu diệt nguyên nhân gây bệnh như dùng các loại Sulphamid để chữa bệnh cho cá thường dùng biện pháp này.
  • Trong phương pháp trị bệnh cho động vật thuỷ sản người ta thường ứng dụng sự tích trữ của thuốc, cho thuốc vào cơ thể dần dần để đạt hiệu nghiệm trị liệu và duy trì thuốc trong cơ thể một thời gian tương đối dài. Tuy vậy cần chú ý đừng để sự tích trữ chữa bệnh phát triển thành tích trữ trúng độc như thuốc trừ sâu Clo hữu cơ tuy độc lực thấp nhưng đó là một chất ổn định khó bị phân giải nên khi vào cơ thể nó lưu lại thời gian dài và lượng tích trữ sẽ lớn dễ ngộ độc nên hiện nay nông ngư nghiệp, chăn nuôi, trong phòng trị bệnh cho động vật thuỷ sản người ta ít dùng hoặc không cho phép một số thuốc.

Về trạng thái hoạt động của vạt chủ

  • Mỗi loài động vật thuỷ sản có đặc tính sinh vật học riêng đồng thời môi trường sống có khác nhau nên phản ứng với thuốc có khác nhau. loài cá nào có tính mẫn cảm cao, sức chịu đựng yếu thì không thể dùng thuốc với liều lượng cao nên tác dụng của thuốc giảm và ngược lại. Ví dụ cá rô phi và cá mè hoa giai đoạn cá hương 2 -3 cm, tắm dung dịch nước muối NaCl 4% sau 9 phút cá mè hoa chết, sau 150 phút cá rô phi chết. như vậy nếu dùng NaCl tắm để trị một số bệnh cho cá thì với rô phi thời gian tắm dài nên tác dụng thuốc mạnh hơn, khả năng tiêu diệt một số sinh vật gây bệnh sẽ lớn.
  • Ngoài loài ra, cá đực, cá cái và tuổi cá cũng chi phối đến tác dụng của thuốc chữa bệnh. Con đực thường sức chịu đựng với thuốc cao hơn con cái. Cá còn nhỏ tính mẫn cảm với thuốc cũng mạnh hơn. Chẳng hạn, dùng muối CuSO4 tắm cho cá con, nếu dùng nồng độ 10 ppm tắm cho cá trắm cỏ giai đoạn cá bột sau 2h30, sẽ chết. Cá trắm cỏ hương sau 4h^ cá sẽ chết.
  • Cùng loài, cùng tuổi, cùng môi trường sống nhưng sức chịu đựng của từng cá thể cũng khác nhau. Thường con khoẻ mạnh có thể dùng thuốc nồng độ cao, thời gian dùng có thể kéo dài hơn con bị yếu. Trong số đàn bị bệnh, con bị bệnh nặng dễ bị ngộ độc hơn con bị bệnh còn nhẹ. Do vậy khi chữa bệnh cho đàn bị bệnh phạm vi an toàn sẽ giảm nên cần chú ý liều dùng và biện pháp cung cấp nước khi cần thiết.
  • Đối với động vật thuỷ sản bậc thấp: giáp xác, ấu trùng nhuyễn thể,... sức chịu đựng kém hơn động vật bậc cao: cá, lưỡng thê, bò sát.

Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )

098 777 3645