– Hầu hết các loài gia súc, gia cầm, động vật hoang dại đều mắc bệnh. Heo (lợn) ở mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh, phổ biến ở heo từ 3 – 6 tháng tuổi.
– Vi khuẩn tụ huyết trùng có trong cơ thể heo khỏe mạnh thường tập trung ở niêm mạc đường hô hấp. Khi có yếu tố bất lợi như thời tiết thay đổi đột ngột, chuyển đàn, dinh dưỡng kém… thì vi khuẩn sẽ phát triển thành bệnh. Bệnh truyền trong đàn qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc với các chất thải, dụng cụ chăn nuôi có mang mầm bệnh.
– Lây lan qua đường tiêu hoá và hô hấp. Lây trực tiếp từ gia súc ốm, chết.
– Lây gián tiếp qua dụng cụ, thiết bị chăn nuôi, thức ăn, nước uống…
Thời gian ủ bệnh 1 – 14 ngày, thường có 2 thể bệnh:
Thể cấp tính
– Heo sốt cao trên 410C; nằm li bì, khó thở, thở dốc; ngồi thở ở tư thế như chó ngồi. Heo kém ăn hoặc bỏ ăn hoàn toàn.
– Vùng hầu, mặt có biểu hiện sưng phù, tai và bụng xuất hiện nhiều mảng tím đỏ. Niêm mạc mắt tím tái, nước mũi chảy ban đầu màu nhờ đục, sau có lẫn máu.
Bệnh tiến triển 1 – 2 ngày hoặc kéo dài đến 5 – 10 ngày. Heo gầy yếu dần rồi chết, nếu không chết chuyển sang thể mãn tính.
Thể mãn tính
– Đây là thể thường gặp, heo gầy yếu, ho, khó thở, đôi khi ho khan hoặc ho liên miên.
– Lúc đầu đi phân táo sau chuyển sang ỉa chảy, phân có mùi khó chịu.
– Trên da có những đám xuất huyết tím bầm, đặc biệt ở tai, bụng, phía dưới đùi và bẹn.
– Nếu không điều trị kịp thời, tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh, heo sẽ chết sau 1 – 2 tháng.
Thể cấp tính
– Xoang ngực, xoang bao tim và xoang phúc mạc tích nhiều nước.
– Phổi viêm nặng, màu đỏ sẫm do tụ huyết và xuất huyết. Phổi bị xơ hóa có nhiều điểm hoại tử, màng phổi viêm dính vào lồng ngực.
– Các hạch ở hầu họng và hạch màng treo ruột sưng to và tụ huyết.
– Tụ huyết, xuất huyết ở nhiều cơ quan bên trong.
– Thận ứ máu đỏ sẫm, mổ ra có máu cục, lá lách sưng to, tụ huyết.
Thể mãn tính
– Heo thường rất gầy. Phổi viêm với nhiều tổ chức xơ hóa, có thể có ổ hoại tử bã đậu.
– Có hiện tượng viêm khớp có mủ, gây đau chân và đi lại khó khăn.
– Dựa vào các triệu chứng, bệnh tích điển hình của bệnh và dịch tễ từng vùng.
– Phân lập căn nguyên gây bệnh.
6.1. Phòng bệnh
Vệ sinh phòng bệnh
– Chuồng nuôi phù hợp với từng loại heo và độ tuổi khác nhau, có tường bao, rào chắn. Chuồng trại luôn thông thoáng, đủ ánh sáng, mát về mùa hè, ấm về mùa đông.
– Thường xuyên quét dọn, định kỳ tẩy uế, khử trùng chuồng nuôi, cọ rửa và tiêu độc máng ăn, máng uống và các dụng cụ chăn nuôi, quần áo bảo hộ…
– Sau mỗi đợt nuôi, phải vệ sinh chuồng trại và khử trùng tiêu độc, sau đó để trống chuồng. Heo mới mua về phải nuôi cách ly ở khu vực riêng 15 – 20 ngày trước khi nhập đàn.
– Phân, rác và chất thải trong chuồng cần được thu gom thường xuyên, đưa ra chỗ tập trung riêng để giữ chuồng luôn sạch sẽ.
– Hạn chế phương tiện, người và vật lạ vào khu vực chăn nuôi.
Các biện pháp khử trùng tiêu độc
– Sử dụng ánh nắng mặt trời để phơi máng ăn, máng uống, dụng cụ chăn nuôi.
– Quét nước vôi pha loãng nồng độ 10% (1 kg vôi/10 lít nước) trong chuồng nuôi, môi trường xung quanh.
– Dùng một số hóa chất sát trùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Vệ sinh thức ăn và nước uống
– Thức ăn, nước uống phải đảm bảo vệ sinh.
– Bệnh tụ huyết trùng là bệnh truyền nhiễm có tính chất thổ nhưỡng, vi khuẩn cư trú ở khắp nơi gặp điều kiện thuận lợi là phát dịch.
Phòng bệnh bằng vaccine
– Đây là biện pháp chủ động, tích cực và có hiệu quả nhất, 1 năm tiêm 2 – 3 lần tùy theo mục đích chăn nuôi và dịch tễ từng vùng. Lần 1 tiêm khi heo 45 – 50 ngày tuổi, sau đó tiêm nhắc lại cứ 6 tháng 1 lần.
– Lưu ý: Những nơi thường xuyên có dịch xảy ra, cần tiêm vaccine nhắc lại 2 lần sau lần 1 khoảng 3 – 4 tuần, sau đó tiêm nhắc lại cứ 6 tháng 1 lần.
Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )