Nguyên nhân gây bênh xâm nhập vào những cơ thể có phát sinh ra bênh hay không còn tuỳ thuộc vào yếu tố môi trường và bản thân cơ thể vật chủ.
Nếu vật chủ có sức đề kháng tốt có khả năng chống đỡ lại yếu tố gây bênh nên không mắc bênh hoặc bênh nhẹ. Ngược lại khả năng chống đỡ yếu, dễ dàng nhiễm bênh.
Do đó một trong những khâu quan trọng để phòng bênh cho động vật thuỷ sản phải tăng cường sức đề kháng cho động vật thuỷ sản.
Kiểm tra chất lượng và dịch bênh con giống động vật thuỷ sản trước khi thả
Các giống loài động vật thuỷ sản từ các nước nhập vào nước ta cũng như động vật thuỷ sản của nước ta xuất ra nước ngoài. Cá, tôm chuyển từ vùng này qua vùng khác phải tiến hành kiểm dịch. Khi có bênh phải dùng các biên pháp xử lý nghiêm túc để khỏi mang sinh vật gây bênh vào nước ao cũng như nước ngoài hay từ địa phương này qua địa phương khác. Có một số động vật thuỷ sản khi bị bênh sau khi thả ra nuôi trong các thuỷ vực mặt nước lớn sẽ lây lan bênh mà không thể có biên pháp chữa trị hiêu quả.
Chất lượng con giống phải thuần chủng, đồng đều về kích cỡ, không sây sát và không nhiễm những bênh nguy trong quá trình nuôi.
Cải tiến phương pháp quản lý, nuôi dưỡng động vật thuỷ sản:
Thả ghép các loài cá và mật độ thả thích hợp:
Trong kỹ thuật nuôi cá người ta thường nuôi ghép nhiều loài cá và chọn mật độ thả tương đối dày để nâng cao sản lượng. Đứng về góc độ phòng bênh cho cá, nếu trong cùng một thuỷ vực nuôi ghép nhiều loài cá tất nhiên mật độ của từng loài cá sẽ thưa hơn thuận lợi cho phòng bênh đồng thời mỗi loài cá có khả năng miễn dịch đối với một số sinh vật gây bênh nên điều kiên để phát sinh ra bênh trong thủy vực ghép ít hơn ao nuôi chuyên một loài với mật độ dày.
Như vậy nuôi ghép nhiều loài cá vừa tận dụng được nguồn thức ăn, không gian sống rộng rãi lại phòng bênh tốt. Tỷ lê ghép và loài ghép không thích hợp sẽ gây ra hiên tượng tranh giành thức ăn cá sẽ bị gầy đi.
Trong các thuỷ vực nuôi ghép những loài cá nào và mật độ bao nhiêu căn cứ vào độ sâu, chất nước, thức ăn, tính ăn của cá, viêc chăm sóc, quản lý cũng như trang thiết bị. Nuôi mật độ quá dày, cá sống chật chội, cá bị bênh có điều kiên thuận lợi để lây lan cho cá khoẻ, cá sinh trưởng chậm, cá gầy yếu, sức đề kháng giảm, dễ nhiễm bênh và gây ra chết hàng loạt. mùa hè dễ thiếu oxy làm cho cá chết ngạt. Nhiều loại bênh thường hay phát triển mạnh trong các ao ương cá mật độ dày, ao có mực nước thấp. Mùa hè nhiêt độ cao, ương cá hương mật độ dày tỷ lê hao hụt cao do ký sinh trùng Trichodina ký sinh. Nếu nuôi mật độ quá dày phải thường xuyên sục khí và cho ăn đầy đủ đồng thời theo dõi môi trường và chăm sóc quản lý tốt.
Nuôi luân canh các động vật thuỷ sản
Trong một ao nuôi hay một khu vực nuôi động vật thuỷ sản quá trình nuôi đã tích luỹ nhiều chất thải và các mầm bênh. Những chất thải và các mầm bênh này sẽ ảnh hưởng và gây bênh cho các chu kỳ nuôi tiếp. Dựa vào các đặc tính mùa vụ của các đối tượng nuôi chúng ta có thể nuôi xen canh trên một ao nuôi, giúp cho các đối tượng nuôi mới không bị nhiễm những mầm bênh của các chu kỳ nuôi trước và chúng có thể tiêu diêt được các mầm đó. Như một ao nuôi tôm nhiều vụ sẽ tích luỹ nhiều mầm bênh của tôm ở đáy ao, nếu chúng ta khi nuôi tôm tẩy dọn ao không sạch thì dễ dàng mắc bênh. Nhưng sau một chu kỳ nuôi tôm, chúng ta nuôi cá rô phi hay trồng rong câu, chúng có thể dọn và làm giảm các mầm bệnh trong đáy ao, vì những mầm bệnh virus ở tôm không gây bệnh cho cá rô phi và rong câu.
Một ao nuôi baba nhiều vụ, dưới đáy ao sẽ tích luỹ nhiều chất thải gây ô nhiễm, xuất hiện sinh vật bám dơn bào: Zoothamnium, Tokophrya, Epistylis... Sau chu kỳ nuôi baba chúng ta nuôi các loài cá ăn thức ăn là động vật, thực vật phù du và sinh vật bám (mè, trôi, rô phi..), cá ăn các sinh vật bám thường gây bệnh cho baba và cá ăn sinh vật phù du, kích thích sinh vật phù du phát triển sẽ lọc sạch dần môi trường nước. ở những khu vực khí hậu thay đổi lớn như miền Bắc Việt Nam chúng ta nên nuôi tôm sú ở các đầm nưóc lợ từ tháng 5 - 8, sau đó ta nuôi rô phi và mùa đông nuôi cua thì sẽ đảm bảo cho các đối tượng nuôi đều phát triển tốt và không nhiễm bệnh. Bởi vì tháng 5 - 8 thời tiết ấm và ổn định ta có thể nuôi tôm sú rất phù hợp. Từ tháng 8 - 11 thời tiết mưa nhiều, nắng nóng nên ta chỉ có thể nuôi rô phi chúng có thể chịu được và dọn các mầm bệnh của tôm thải ra. Mùa đông và mùa xuân từ tháng 12 sang năm, cua có thể chịu đựng được nhiệt độ lạnh nên chúng có thể sinh trưởng và không bị bệnh nắng nóng mùa hè.
Cho cá, tôm ăn theo phương pháp “4 định’":
Thực hiện biện pháp kỹ thuật cho cá, tôm ăn theo “4 định”, cá tôm ít bệnh tật, nuôi cá đạt năng suất cao
Định chất lượng thức ăn: Thức ăn dùng cho cá, tôm ăn phải tươi, sạch sẽ không bị mốc meo, ôi thối, không có mầm bệnh và độc tố. Thành phần dinh dưỡng thích hợp đối với yêu cầu phát triển cơ thể cá trong các giai đoạn.
Định số lượng thức ăn: Dựa vào trọng lượng cá, tôm để tính lượng thức ăn, thường sau khi cho ăn từ 3 -4 h cá tôm ăn hết là lượng vừa phải. Cá tôm ăn thừa nên vớt bỏ đi để tránh hiện tượng thức ăn phân huỷ làm ô nhiễm môi trường sống.
Định vị trí để cho ăn: Muốn cho cá tôm ăn một nơi cố định cần tập cho cá tôm có thói quen đến ăn tập trung tại một điểm nhất định. Cho cá tôm ăn theo vị trí vừa tránh lãng phí thức ăn laị quan sát các hoạt động bắt mồi và trạng thái sinh lý sinh thái của cơ thể cá tôm. Ngoài ra để phòng bệnh cho cá tôm trước các mùa vụ phát sinh bệnh có thể treo các túi thuốc ở nơi cá tôm đến ăn, có thể tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh.
Định thời gian cho ăn: hàng ngày cho cá tôm ăn 2 lần. Ví dụ như nuôi cá lồng, nuôi mật độ dày nên cho ăn nhiều lần hơn nhưng số lượng ít đi.
Các cơ sở nuôi cá tôm thường dùng phân hữu cơ bón xuống thuỷ vực bổ sung chất dinh dưỡng để cho sinh vật phù du phát triển cung cấp nguồn thức ăn tự nhiên cho cá tôm.
Phân bón phải ủ kỹ với 1% vôi nung và bón liều lượng thích hợp nếu không sẽ làm xấu môi trường nước ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể cá tôm. Thực hiện biện pháp kỹ thuật cho cá tôm ăn theo “4 định” tuỳ từng mùa vụ, chất nước, điều kiện môi trường và trạng thái cơ thể cá tôm .. mà có sự thay đổi cho thích hợp.
Sản phẩm giúp tôm cá tăng sức đề kháng , mau lớn
Thường xuyên chăm sóc quản lý:
Hàng ngày nên có chế độ thăm ao theo dõi hoạt động của cá để kịp thời phát hiện bệnh và xử lý ngay không cho bệnh phát triển và kéo dài. Cần quan sát biến đổi chất nước, bổ sung nguồn nước mới đảm bảo đầy đủ oxy và hạn chế các chất độc. Để tạo môi trường cá sống sạch sẽ cần dọn sạch cỏ tạp, tiêu trừ địch hại và vật chủ trung gian, vớt bỏ xác sinh vật và cá chết, các thức ăn thừa thải, tiêu độc nơi cá đến ăn đề hạn chế sinh vật gây bệnh sinh sản và lây truyền bệnh.
Thao tác đánh bắt, vận chuyển nên nhẹ nhàng, tránh xây xát cho cá:
Trong nước luôn luôn tồn tại các sinh vật gây bệnh cho cá, vì vậy trong quá trình ương nuôi vận chuyển đánh bắt thao tác phải thật nhẹ nhàng nếu để cá bị thương là điều kiện thuận lợi cho sinh vật gây bệnh xâm nhập vào cơ thể
Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )