Cá, tôm bệnh nhẹ và cá, tôm khỏe trong ao đều được ăn thức ăn có thuốc hoặc ngâm trong thời gian cần thiết để thuốc có tác dụng mới có khả năng khỏi bệnh. Cá, tôm bệnh nặng, không ăn được, nằm chờ chết. Vì vậy cần phải phòng bệnh cho cá hơn là chữa bệnh.
I. Nguyên tắc và biện pháp tổng hợp để phòng trị bệnh cá.
1. Nguyên tắc
Khi phát hiện bệnh cá, tôm phải kiểm tra chẩn đoán đúng bệnh, chữa bệnh kịp thời, dùng thuốc thích hợp và đúng liều lượng. Tránh không làm cho cá, tôm bị ngộ độc vì nồng độ thuốc quá cao, nhưng phải đảm bảo diệt được nguyên nhân bệnh.
2. Các biện pháp tổng hợp để phòng trị bệnh cá
a. Thiết kế trạm, trại ương nuôi cá phù hợp với cách phòng bệnh cá
- Chú ý nguồn nước cung cấp cho ao quanh năm, chất lượng nước tốt và có khả năng cải tạo nguồn nước.
- Chú ý hệ thống mương, máng tháo dẫn nước.
- Có ao cách ly để chứa cá, tôm tạm khi đưa từ nơi khác đến, hoặc chứa cá, tôm bệnh để điều trị ở cuối dòng nước.
b. Thực hiện đúng đắn biện pháp kỹ thuật nuôi
Cá khỏe, có sức đề kháng cao, có khả năng chống lại những nguyên nhân gây bệnh từ ngoài xâm nhập vào cơ thể.
Cần cải tiến kỹ thuật nuôi.
- Chú ý mật đô thả cá vừa phải và tỷ lệ thả ghép thích hợp. Nếu thả nuôi dày, cá thiếu thức ăn sẽ gầy yếu dễ nhiễm bệnh và dễ truyền bệnh.
- Cung cấp khẩu phần ăn cho cá, tôm đúng kỹ thuật, dựa vào 4 định:
• Định chất: thức ăn phải tươi sạch, chất lượng tốt, cung cấp đầy đủ số lượng và thành phần làm cho cá khỏe mạnh, mau lớn, có khả năng chống lại những bệnh từ bên ngoài xâm nhập vào cơ thể và những bệnh bên trong gây rối loạn chuyển hóa.
• Định lượng: có thể kiểm tra được tình hình sức khỏe của cá qua việc cho ăn. Tránh cho cá ăn thừa hoặc thiếu.
• Định thời gian: tập cho cá có thói quen ăn đúng giờ, mỗi ngày 2-3 lần.
• Định vị trí: cho cá ăn ở chỗ nhất định, tiện cho công tác phòng bệnh và kiểm tra tình hình của cá, chỗ cho cá ăn phù hợp với đặc điểm sinh thái của cá.
• Chăm sóc:
• Thao tác đánh bắt cá nhẹ nhàng, dùng lưới đúng tiêu chuẩn kỹ thuật để không làm xây xát cá.
• Chú ý điều kiện môi trường, dọn ao quang đãng, theo dõi chất nước, điều kiện thủy lý hóa cho thích hợp để cá hô hấp thuận lợi, trao đổi chất dễ dàng.
Thả giống
Cần thả cá giống lớn, đúng qui cách và đồng đều để chúng có khả năng chống địch hại và chịu đựng được sự thay đổi điều kiện sống của môi trường. Cá khỏe mạnh, lớn nhanh thì có sức đề kháng tốt.
Phòng bệnh
Bất kỳ bệnh nào xảy ra cũng có nguyên nhân gây bệnh và điều kiện nhất định. Phải hạn chế nguyên nhân và điều kiện gây ra bệnh bằng cách:
- Dọn tẩy ao: đáy ao là nơi ở, nơi tích tụ của vi trùng, ký sinh trùng, ký chủ trung gian... Dùng vôi tẩy ao có tác dụng diệt nguyên nhân gây bệnh, cải tạo đáy ao và chất nước.
- Kiểm tra bệnh cá: cần kiểm tra cá giống trước khi thả, trước khi vận chuyển để phát hiện bệnh, kịp thời xử lý, tránh lây lan và truyền bệnh từ nơi này đến nơi khác. Sau khi kiểm tra, cá giống khỏe mạnh, mau lớn tránh được sự xâm nhập vi trùng, ký sinh trùng mới đến. Mỗi vùng thường có bệnh đặc biệt cần hạn chế sự lây lan. Trước khi vận chuyển phải kiểm tra khoảng 15 con cá, cứ 10 ngày kiểm tra 1 lần, liên tục kiểm tra 2-3 lần đủ đảm bảo yêu cầu phát hiện bệnh cá. Khi nhận cá từ nơi xa chuyển đến phải chứa ở ao cách ly để theo dõi và tiến hành kiểm tra ký sinh trùng. Nếu phát hiện ký sinh trùng và ký sinh trùng nguy hiểm gây bệnh cá phải tiến hành dùng thuốc để diệt trùng, đảm bảo cá hết ký sinh trùng mới chuyển sang ao nuôi.
- Trừ độc thức ăn và nơi cá ăn: nên dùng thức ăn tươi, sạch đủ chất. Nếu là thực vật nên rửa bằng hypochlorite canxi 6% trong 30 phút. Nếu là phân thì phải ủ kỷ. Cá ăn thực vật hay mắc bệnh đường ruột. Thực vật ngâm hypochlorite canxi xong phải rửa lại bằng nước lã. Nơi cho cá ăn nên treo từ 2-4 túi thuốc hypochlorite canxi, mỗi túi nặng 300g để tiêu độc. Cần cho cá ăn đúng chỗ. Túi đựng thuốc đan bằng tre. Treo túi thuốc tùy theo tập tính ăn của cá.
- Trừ độc dụng cụ: Những dụng cụ bằng gỗ được trừ độc bằng hypochlorite canxi 6% ngâm trong 30 phút . Đối với dụng cụ bằng tơ lụa , vải thì tẩy độc bằng CuSO410ppm, để ngâm trong 1 giờ.
- Phòng bệnh : Dùng thuốc để phòng bệnh trước mùa thường xảy ra bệnh (đối với bệnh theo mùa) . Ví dụ : Bệnh đốm đỏ thường phát sinh tháng 3 , thì trong tháng 2 nên dùng thuốc phòng bệnh cho cá ăn.
+ Đối với bệnh ngoài da do vi trùng , dùng Ca(OCl)2 , treo thành 3 - 6 túi, mỗi túi khoảng 100 - 300g thuốc, đảm bảo nồng độ thuốc có hiệu quả 1g/m3 nước. Đối với
những bệnh do ký sinh trùng để phòng bệnh người ta dùng CuSO4 đựng trong các túi vải dầy, treo mỗi túi 150 -200g, đảm bảo nồng độ thuốc trung bình 0,5 ppm.
+ Bệnh bên trong cơ thể như bệnh đốm đỏ, bệnh đường ruột trộn Sulfamid vào thức ăn, làm thành viên thích hợp cho cá ăn, có độ dính vừa phải, cho cá ăn lúc đói.
+ Tiêu diệt ký chủ trung gian và ký chủ cuối cùng của các loài sán như săn bắt các loài chim ăn cá, đánh bắt cá mắc bệnh hoặc nuôi ghép với cá dữ để tiêu diệt cá bệnh.
+ Ứng dụng miễn dịch lứa tuổi, miễn dịch loài trong kỹ thuật nuôi như khai thác triệt để loài cá mắc bệnh, thay vào thành phần đàn loài cá khác có khả năng miễn dịch bệnh đó.
II. Các nguyên tắc chính phòng bệnh trên cá, tôm
1. Các nguyên tắc chính phòng bệnh trên cá, tôm
• Ao nuôi cá, tôm phải được xây dựng gần nguồn nước có chất lượng tốt để có thể thay nước bất cứ lúc nào cần thiết.
• Ao nuôi nên được cải tạo đúng theo các bước đã được trình bày ở phần trên.
• Cần chọn cá, tôm giống khỏe mạnh và chỉ nên mua cá giống ở những trại ương đáng tin cậy.
• Trước khi thả cá giống vào ao nuôi, phải làm cân bằng nhiệt độ bên trong bao vận chuyển cá, tôm với nhiệt độ nước trong ao nuôi.
• Phải diệt ký sinh trùng có thể bám theo cá giống đến ao nuôi bằng cách xử lý ao nuôi bằng Formol, nồng độ 25 - 30 ml/m3 , một ngày sau khi thả cá giống.
• Không được thả cá, tôm giống quá dày trong ao nuôi.
• Nên kiểm soát việc cho cá ăn, thức ăn phải có chất lượng cao; cho ăn theo tỷ lệ thích hợp với cỡ cá và số lượng cá, tôm trong ao nuôi.
• Cá, tôm giống cần được quan sát cẩn thận, mỗi biểu hiện bất thường hoặc triệu chứng bệnh ở cá phải được xử lý kịp thời.
Nếu mọi biện pháp phòng bệnh được tiến hành mà cá vẫn bị bệnh, thì phải sử dụng thuốc để điều trị. Trước khi điều trị bằng thuốc hoặc hóa chất phải xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh và cách thức điều trị thích hợp. Cần tính đến khả năng chịu đựng của cá đối với liều lượng thuốc và hóa chất dùng để trị. Ngoài ra phải tính toán cân xứng giá thành của thuốc với hiệu quả điều trị.
Sau khi xem xét cẩn thận mọi khía cạnh, nếu quyết định điều trị thì chọn phương pháp điều trị thích hợp nhất.
2. Một số qui định về việc sử dụng thuốc kháng sinh
- Luôn quản lý môi trường nuôi tốt
- Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh khi thật cần thiết
- Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh khi cá bị bệnh do vi khuẩn, thuốc kháng sinh không có tác dụng diệt vi - rút, nấm và nguyên sinh ñđộng vật
- Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh nào mà vi khuẩn mẫn cảm
- Sử dụng thuốc kháng sinh mới và nguồn gốc đáng tin cậy
- Cẩn thận khi sử dụng thuốc kháng sinh vì chúng có thể gây nguy hiểm cho con người
- Trộn thuốc vào thức ăn hợp khẩu vị từng loại cá và không để lâu
- Sử dụng đúng liều lượng, đúng thời lượng
- Áp dụng đúng thời gian thuốc bị đào thải
Sử dụng thuốc và hoá chất sao cho không tồn lưu trong cá, tôm và không gây hại cho sức khoẻ con người khi sử dụng nó làm thức ăn. Đặc biệt, trường hợp nuôi cá tra, basa để xuất khẩu. Hiện nay, các nước nhập khẩu cá, tôm đều phải kiểm tra sự có mặt của các chất kháng sinh và hóa chất lưu tồn trong thịt cá, tôm. Khi phát hiện có các chất này, lô hàng đó sẽ bị loại bỏ.
Hỗ trợ kỹ thuật : 098 777 36 45 ( Mr Quang )